VŨ NỮ IZU
Truyện ngắn của KAWABATA
1
Với tốc độ báo động, cơn mưa rào quét về phía tôi từ
chân núi, chạm đến rừng tuyết tùng trắng khi con đường bắt đầu lượn qua
đèo. Tôi mười chín và đang đi du lịch một mình qua bán đảo Izu. Quần áo
tôi thuộc kiểu sinh viên mặc, kimono đen, guốc gỗ cao, mũ nhà trường,
túi sách vắt qua vai. Tôi đã ở qua ba đêm tại suối nước nóng gần trung
tâm bán đảo, và lúc này đã là ngày thứ tư tôi rời khỏi Tokyo, đang leo
lên đèo Amagi và đi về phía Nam Izu. Quang cảnh mùa thu thật dễ chịu,
núi mọc chồng lên nhau, những cánh rừng bạt ngàn, những thung lũng sâu,
nhưng khung cảnh đó chẳng làm tôi háo hức bằng một hi vọng thầm kín. Mưa
nặng hạt bắt đầu rơi. Tôi chạy trên đường, lúc này dốc và lượn vòng; ở
ngay cửa đèo, tôi bước vào quán trà. Tôi dừng một lát ở ngưỡng cửa. Gần
như là quá may mắn: các vũ nữ đang nghỉ bên trong.
Cô gái lật cái đệm đang ngồi, lịch sự đẩy về phía tôi.
"Vâng", tôi lẩm bẩm ngu ngốc khi ngồi xuống. Ngạc nhiên và hổn hển thở, tôi nhận thấy lời cảm ơn đơn giản nhất ngắc ngứ trong cổ họng.
Nàng ngồi gần tôi, chúng tôi đối diện nhau. Tôi lóng ngóng cầm thuốc lá và nàng đưa cho tôi cái gạt tàn trước mặt một trong những phụ nữ khác. Tôi vẫn không nói gì.
Nàng có lẽ mười sáu. Tóc nàng được chải cao theo kiểu cũ mà tôi không biết. Khuôn mặt hình ô van nghiêm nghị của nàng bị làm nhỏ lại dưới mái tóc nhưng khuôn mặt và mái tóc lại rất hợp nhau, khá giống trong tranh, bức tranh vẽ các thiếu nữ xinh xắn thời xưa với những lọn tóc xoăn tít. Hai thiếu nữ khác ngồi cùng nàng, một thanh niên vào khoảng hai lăm vận đồng phục của nhà trọ Nagaoka. Một phụ nữ ở vào độ tuổi bốn mươi quản lí nhóm.
Tôi từng thấy cô vũ nữ bé nhỏ này hai lần trước. Một lần, tôi vượt qua nàng và các phụ nữ khác cạnh cây cầu dài ở giữa đường bán đảo. Nàng đang đeo một chiếc trống to. Tôi ngoái nhìn lại và cứ ngoái nhìn mãi, tự tán dương mình vì đã đến đây, cuối cùng, tôi đã bắt được hương vị của chuyến du lịch. Rồi sau đó, vào tối thứ ba, tôi thấy nàng múa. Nàng múa ngay bên trong cổng nhà trọ của tôi.
Tôi ngồi trên bậc thềm, tâm trạng vui vẻ. Trên cầu vào hôm qua, ở đây tối nay, tôi tự nhủ, ngày mai trên đèo đến Yugano và chắc chắn ở đâu đó trên mười lăm dặm đường này mình sẽ lại gặp họ.
Đây là hi vọng đã khiến tôi leo vội lên đường núi. Nhưng cuộc gặp gỡ tại quán trà quá đột ngột. Tôi bị tước mất sự tự chủ.
Vài phút sau, bà lão trông quán trà đưa tôi sang phòng khác, căn phòng rõ là đã không được thường xuyên sử dụng. Nó hướng ra phía thung lũng sâu đến nỗi đáy mất hút khỏi tầm nhìn. Răng tôi đang đánh cầm cập, cánh tay tôi rợn gai ốc. Tôi hơi lạnh, tôi nói với bà lão khi bà trở lại với tách trà.
- Nhưng cậu đã ướt sũng rồi kìa! Lại đây hong khô đi. - Bà ta dẫn tôi vào phòng khách.
Hơi nóng từ bếp lò để ngỏ phả mạnh vào tôi khi bà lão mở cửa.
Tôi lưỡng lự trên ngưỡng cửa. Một ông lão trắng nhợt và húp híp như thể cái xác chết trôi đang ngồi vắt chéo chân bên cạnh lò lửa.
Ông ta hướng đôi mắt nặng nề, uể oải nhìn về phía tôi. Ngay cả lòng đen cũng ngả màu vàng, như thể đang thối rữa. Xung quanh ông ta là cả một núi túi báo cũ và các mẩu báo. Tôi cho rằng ông lão bị vùi dưới một ngọn núi. Tôi chăm chú nhìn con người kì dị mà không thể nào tin rằng đây là một sinh thể sống.
- Tôi tiếc là không kịp ngăn để cậu đừng nhìn thấy ông ấy, người đàn bà nói. - Nhưng ông thuộc về nơi này và sẽ chẳng làm gì hại cậu đâu. Ôngấy không thể cử động. Làm ơn cố chịu đựng cho dù bộ dạng ông rất khó nhìn.
Đoạn, bà kể cho tôi nghe về ông ta. Ông ta phải chịu đựng bệnh bại liệt bây lâu nay và hoàn toàn mất khả năng di chuyển. Ngọn núi xung quanh ông ta là những lời khuyên ông ta nhận được từ khắp mọi miền trên đất nước về cách điều trị bệnh bại liệt, đống túi kia thì đựng thuốc, chúng cũng được gởi đến từ khắp mọi nơi. Ông ta chắc đã nghe được chuyện chữa bệnh bại liệt từ những người vượt đèo và hẳn ông ta cũng đã đọc quảng cáo, nên không bao giờ bỏ qua bất cứ lời khuyên hay bất cứ loại thuốc nào. Suốt ngày đêm, ông ta sống giữa những túi giấy tờ và lời khuyên. Vậy nên đống giấy tờ mục nát cứ cao lên mãi.
Không thể nghĩ ra được bất kì điều gì để nói, tôi ngồi khom bên bếp lửa. Một chiếc ô tô leo lên đèo làm rung chuyển quán trà. Với cái lạnh này, trời đã sang thu, rồi chẳng mấy nữa tuyết sẽ rơi. Tôi thầm hỏi tại sao ông lão lại ở trên này. Hơi nước tỏa ra từ kimono của tôi và ngọn lửa ấm đến mức đầu tôi bắt đầu đau. Bà lão bước ra nói chuyện với khách:
- Chà. Vậy ra đây là cô bé đi cùng các vị trước đây, đã lớn quá rồi. Thực sự ra dáng một thiếu nữ. Dễ thương quá. Lại xinh đẹp nữa chứ. Con gái lớn nhanh quá, nhanh quá.
Khoảng chừng một giờ sau, tôi nghe tiếng họ chuẩn bị lên đường. Tim tôi đập mạnh, ngực tôi thắt lại, nhưng không tìm đủ can đảm để đứng dậy đi cùng họ. Tôi bồn chồn bên bếp lửa. Nhưng dẫu sao thì họ cũng là phái yếu; cứ cho là họ quen đi bộ thì tôi cũng sẽ chẳng khó gì để vượt qua họ ngay cả khi tôi bị tụt lại nửa dặm hoặc cả dặm phía sau. Đầu óc tôi cứ quay cuồng hết cả lên vì họ như thể việc ra đi của họ cho phép nó hành động như thế.
- Tối nay họ sẽ nghỉ lại đâu? - Tôi hỏi bà lão khi bà quay lại.
- Đám người ấy thì có trời mới biết nơi họ sẽ nghỉ lại. Nếu họ gặp được người trả tiền, thì đấy sẽ là nơi nghỉ. Cậu nghĩ liệu họ có biết trước được không?
Lời lẽ khinh miệt thẳng thừng của bà ta lại làm tôi phấn chấn.
Nếu quả như thế thì tối nay, tôi thầm nhủ, cô vũ nữ sẽ ở với tôi.
Mưa dịu ngớt chỉ còn lắc rắc, con đèo quang đãng. Tôi thấy tôi không thể đợi lâu thêm nữa, mặc dù bà lão đảm bảo trong vòng mười phút nữa mặt trời sẽ ló rạng.
- Ông hãy giữ gìn cẩn thận, - tôi nói với ông lão khi đứng dậy, - ý tôi là chẳng mấy nữa trời sẽ rét.
Đôi mắt vàng di chuyển nặng nề về phía tôi và ông lão khẽ gật đầu.
- Chàng trai! Chàng trai! - Bà lão chạy đuổi theo tôi trên đường.
- Chỗ này quá nhiều. Tôi thực sự không thể nhận.
Bà ta níu chặt túi sách của tôi, cố nhét lại số tiền mà tôi đã trả cho bà ta và khi tôi từ chối, bà ta cứ khập khễnh đi theo tôi.
Chí ít thì bà ta cũng phải đưa tiễn tôi một quãng đường, bà ta khăng khăng:
- Chỗ tiền này thực sự nhiều quá. Tôi thì chẳng làm gì cho cậu. Nhưng tôi sẽ nhớ và tôi sẽ có cái gì đó dành cho cậu khi cậu lại qua lối này. Cậu sẽ trở lại chứ, đúng không? Tôi sẽ không quên cậu.
Lòng thành của bà lão đối với đồng năm mươi xen thật cảm động. Nhưng tôi đang ở trong cơn sốt muốn đuổi kịp cô vũ nữ bé nhỏ trong lúc những bước chân tập tễnh của bà lão cứ giữ tôi lại.
Khi chúng tôi đến chỗ đường hầm, tôi bắt tay tạm biệt.
- Cám ơn bà. Ông đang ở một mình. Bà nên quay lại với ông ấy.
Cuối cùng bà lão buông tay khỏi túi sách của tôi.
Những giọt nước lạnh đang rơi xuống trong đường hầm tối. Lối ra để đến Nam Izu hẹp và rực sáng ở xa kia.
2
Một bên được kẻ bởi hàng rào trắng, con đường ngoằn
ngoèo chạy xuống từ cửa hầm tựa một tia chớp. Gần đáy của rặng núi lởm
chởm ấy là cô vũ nữ và đoàn của cô. Nửa dặm nữa là tôi đuổi kịp họ. Bởi
vì dường như không lịch sự khi lập tức bước chậm lại để đi cùng họ, tôi
tiếp tục vượt qua cánh phụ nữ với điệu bộ thản nhiên. Người đàn ông, đi
trước chừng mười mét, quay lại khi nghe tiếng chân tôi bước đến.
- Cậu đi cừ thật, - đoạn, sau khi ngừng lại: - may quá, mưa đã tạnh.
Nhẹ nhõm, tôi đi bên cạnh anh ta. Anh ta bắt đầu hỏi chuyện, và cánh đàn bà, nhìn từ chúng tôi chuyện trò, rảo bước đi ngay sau chúng tôi. Người đàn ông đeo cái hòm mây lớn sau lưng. Người đàn bà lớn tuổi ôm con chó con. Hai phụ nữ trẻ hơn mang những túi đồ lớn, một cô đeo giỏ mây, còn cô kia thì đeo tay nải. Cô vũ nữ mang trống và giá đỡ. Người đàn bà lớn tuổi thỉnh thoảng góp chuyện.
- Cậu ấy là học sinh trung học, - người lớn tuổi hơn trong hai cô gái trẻ thì thầm với cô vũ nữ bé nhỏ, đang khúc khích cười khi tôi liếc nhìn lại.
- Rõ rồi, thậm chí em còn biết rõ nữa là đằng khác, - cô gái đáp. - Học sinh thường đến đảo ta.
Họ đến từ Oshima, một trong những hòn đảo của cụm đảo Izu, người đàn ông nói với tôi. Vào mùa xuân, họ rời đảo đi lang thang khắp bán đảo, nhưng bây giờ, trời đang trở lạnh và họ không mang theo quần áo mùa đông. Sau mươi hôm hoặc trong khoảng thời gian ấy, từ Shimoda ở phía Nam họ sẽ lại quay về miền Bắc, rồi từ đó họ sẽ đi thuyền về đảo nhà. Tôi lại liếc nhìn những lọn tóc dày, nhìn hình dáng bé nhỏ, mọi thứ lãng mạn hơn vì đã đến từ Oshima. Tôi hỏi họ về những hòn đảo - Rất nhiều học sinh đến bơi ở Oshima, - cô vũ nữ nói với người đàn bà bên cạnh.
- Tôi chắc là vào mùa hè, - tôi nhìn lại.
- Kể cả mùa đông, - nàng trả lời bằng giọng hầu như không thể nghe được.
- Ngay cả trong mùa đông?
Nàng nhìn người đàn bà khác và cười bí ẩn.
- Họ có thể bơi ngay trong mùa đông sao? - tôi lại hỏi.
Nàng đỏ mặt và khẽ gật đầu, nét mặt biểu lộ sự nghiêm túc.
- Đứa trẻ con đã ra khỏi đầu nó rồi đấy, - người đàn bà lớn tuổi cười vang.
Cách Yugano khoảng sáu, bảy dặm, con đường men theo dòng sông. Những rặng núi và thậm chí cả bầu trời như hướng về phương Nam khi chúng tôi xuống đèo. Người đàn ông và tôi bây giờ đã là bạn bè. Chúng tôi đi men qua rìa của một hoặc hai thôn làng và khi những mái nhà tranh của Yugano ở bên dưới hiện lên trong tầm mắt, tôi lấy hết can đảm để nói rằng tôi muốn tiếp tục đi cùng họ đến Shimoda. Anh ta hài lòng.
Phía trước một quán trọ tồi tàn, người đàn bà lớn tuổi nhất liếc nhìn tôi với vẻ dò hỏi như thể sao tôi không để họ một mình.
- Nhưng quý cậu đây muốn tiếp tục đi cùng chúng ta, - người đàn ông nói.
- Ồ, ra thế, - bà ta vui vẻ nói. - Tục ngữ dạy: Thêm bạn đường, thêm sự chia sẻ trong đời. Tôi cho là ngay cả những kẻ thấp hèn như chúng tôi cũng có thể làm cho chuyến đi thêm phần vui vẻ. Hãy vào đi. Chúng ta cùng uống trà và nghỉ ngơi.
Những phụ nữ trẻ hơn im lặng nhìn tôi và có phần rụt rè, như thể việc quyết định không liên quan đến họ.
Chúng tôi lên gác và đặt hành lý xuống. Đệm rơm và cửa đã mòn vẹt, bẩn thỉu. Cô vũ nữ bưng trà từ tầng dưới lên. Khi nàng đến chỗ tôi, tách trà kêu leng keng trên đĩa. Nàng cố đặt tách trà xuống gọn ghẽ bằng nỗ lực lớn của bản thân, nhưng lại làm tách trà nghiêng đổ. Tôi đã không chuẩn bị tâm thế trước sự lúng túng tột độ ấy.
- Xin cậu thứ lỗi. Con bé đến tuổi thừa tay thừa chân, - người đàn bà lớn tuổi nói, cau mày và đẩy miếng giẻ lau đến chỗ cô bé đang lo lắng lau chỗ trà đổ.
Lời nhắc nhở kì quặc này khiến tôi phân vân. Tôi cảm thấy niềm háo hức dâng lên bởi lời bình luận của bà lão trong quán trà bên kia đèo dịu xuống.
- Cái ấy làm bằng chất liệu tốt đấy, - người đàn bà lớn tuổi nói lúc xem xét phần trang trí trên áo kimono của tôi. - Nó giống hệt như của Tamiji, giống thật. Rất giống của Tamiji. - Bà ta nhắc đi nhắc lại câu nói nhiều lần, đoạn lại nói với tôi. - Chúng tôi gởi thằng bé ở trường. Cậu làm tôi nhớ nó. Cũng cùng kiểu trang in ấy. Dạo này chúng đắt lắm.
- Nó học lớp mấy?
- Lớp năm.
- Thằng bé ở tận Kofu, trong vùng núi. Chúng tôi chuyển đến Oshima lâu rồi nhưng quê thì ở Kofu.
Khoảng một giờ sau, người đàn ông đưa tôi sang quán trọ khác. Tôi đã nghĩ rằng tôi sẽ ở cùng họ. Chúng tôi leo xuống qua các tảng đá, các bậc cấp lát đá cao chừng một trăm mét trên con đường nhỏ. Có một nhà tắm công cộng trên bờ con sông nhỏ. Chỉ ngay sau nhà tắm là cây cầu dẫn đến khu vườn nhà trọ của tôi.
Chúng tôi đi tắm cùng nhau. Anh ta hai mươi ba tuổi, anh ta kể, vợ anh ta đã hai lần sẩy thai. Bởi vì anh ta mặc đồng phục Nagaoka nên tôi đoán anh ta sinh trưởng ở Nagaoka, khu vực phía Bắc bán đảo. Khuôn mặt và cách nói của anh ta không phải không có vẻ thông minh. Từ sự hiếu kì và ưa thích một cô trong đám phụ nữ kia, tôi đoán hẳn anh ta đi cùng để khuân vác hành lí.
Tôi ăn trưa khi chúng tôi đi tắm về. Chúng tôi rời Yugashima vào lúc tám giờ và bây giờ vẫn chưa đến ba giờ.
Trên đường về, anh ta chào tôi từ dưới vườn.
Tôi ném xuống phong bì đựng ít tiền.
- Tự mua cho mình ít hoa quả hay thứ gì đó. Thông cảm vì đã ném phong bì xuống.
Anh ta định bỏ đi mà không nhặt, nhưng rồi quay lại nhặt lên.
- Cậu đừng làm thế, - anh ta nói và ném trả phong bì.
Phong bì rơi xuống mái tranh. Tôi lại ném xuống. Lần này anh ta nhận.
Mưa nặng hạt bắt đầu rơi vào hoàng hôn. Những ngọn núi xám mờ, cảnh vật chìm nghỉm, nước sông mỗi lúc một sẫm vàng hơn, nhiều bùn hơn, nhiều tiếng ồn hơn. Tôi cảm thấy chắc chắn là các vũ nữ sẽ không ra khỏi nhà vào một tối như thế, nhưng tôi thì lại không thể ngồi yên. Hai hoặc ba lần tôi xuống tắm. Phòng tôi mờ tối. Một ngọn đèn treo trong ô hình chữ nhật, trổ bên trên những cánh cửa trượt ngăn phòng tôi với phòng bên cạnh, chiếu sáng cho cả hai phòng.
Lúc ấy, xa xa trong màn mưa, tôi nghe thấy một tiếng trống. Tôi đẩy toang cửa sổ, suýt giật tung nó ra khỏi khe kéo, rồi toài người ra ngoài. Tiếng trống như thể đang đến gần hơn. Mưa, kèm theo gió mạnh, quất vào mặt tôi. Tôi nhắm mắt và cố tập trung vào tiếng trống, vào nơi nó có thể, để xem nó có tiến về phía tôi. Thoáng chốc, tôi nghe tiếng đàn Shamisen, rồi thỉnh thoảng là tiếng một phụ nữ gọi ai đó hoặc một tràng cười ha hả. Nhóm vũ nữ được mời đến dự tiệc ở nhà hàng đối diện với nhà nghỉ của họ, dường như thế. Tôi có thể phân biệt được giọng của hai, ba phụ nữ và ba, bốn giọng đàn ông. Ngay khi họ kết thúc ở đó, tôi tự nhủ, họ sẽ đến đây. Bữa tiệc dường như đã vượt quá một cuộc vui vô hại để trở thành cuộc đập phá hỗn độn. Thỉnh thoảng giọng đàn bà lại kêu ré lên xuyên qua bóng tối như một nhát roi quất. Tôi ngồi cứng đờ, cứ căng người ra thêm trên gờ cửa sổ, mắt nhìn ra khung cửa mở rộng. Mỗi một tiếng trống tôi cảm nhận như là một sự trào dâng của niềm thư thái. "A, nàng vẫn ở đó. Nàng vẫn ở đó và chơi trống".
Cứ mỗi khi tiếng trống ngừng lại, bầu im lặng dường như không thể chịu đựng nổi. Như thể tôi đang bị nhấn chìm dưới cú đánh của cơn mưa.
Có lúc vang lên những bước chân loạn xạ - họ đang chơi trò đuổi bắt hay khiêu vũ? Rồi tiếp đó là hoàn toàn im lặng. Tôi chằm chằm nhìn vào bóng tối, cố tìm hiểu xem sự im lặng có nghĩa gì. Nàng đang làm gì, có ai đó làm nàng vấy bẩn trong suốt khoảng thời gian còn lại của đêm?
Tôi đóng cửa sổ và nằm xuống. Ngực tôi thắt lại đau đớn. Tôi xuống tắm lần nữa, vùng vẫy cật lực. Mưa đã dừng, vầng trăng ló ra. Bầu trời mùa thu, được nước mưa rửa sạch, ánh lên màu pha lê ở đằng xa. Tôi chợt nảy ra ý tưởng chạy chân trần đến tìm nàng. Thời gian đã quá hai giờ đêm.
- Cậu đi cừ thật, - đoạn, sau khi ngừng lại: - may quá, mưa đã tạnh.
Nhẹ nhõm, tôi đi bên cạnh anh ta. Anh ta bắt đầu hỏi chuyện, và cánh đàn bà, nhìn từ chúng tôi chuyện trò, rảo bước đi ngay sau chúng tôi. Người đàn ông đeo cái hòm mây lớn sau lưng. Người đàn bà lớn tuổi ôm con chó con. Hai phụ nữ trẻ hơn mang những túi đồ lớn, một cô đeo giỏ mây, còn cô kia thì đeo tay nải. Cô vũ nữ mang trống và giá đỡ. Người đàn bà lớn tuổi thỉnh thoảng góp chuyện.
- Cậu ấy là học sinh trung học, - người lớn tuổi hơn trong hai cô gái trẻ thì thầm với cô vũ nữ bé nhỏ, đang khúc khích cười khi tôi liếc nhìn lại.
- Rõ rồi, thậm chí em còn biết rõ nữa là đằng khác, - cô gái đáp. - Học sinh thường đến đảo ta.
Họ đến từ Oshima, một trong những hòn đảo của cụm đảo Izu, người đàn ông nói với tôi. Vào mùa xuân, họ rời đảo đi lang thang khắp bán đảo, nhưng bây giờ, trời đang trở lạnh và họ không mang theo quần áo mùa đông. Sau mươi hôm hoặc trong khoảng thời gian ấy, từ Shimoda ở phía Nam họ sẽ lại quay về miền Bắc, rồi từ đó họ sẽ đi thuyền về đảo nhà. Tôi lại liếc nhìn những lọn tóc dày, nhìn hình dáng bé nhỏ, mọi thứ lãng mạn hơn vì đã đến từ Oshima. Tôi hỏi họ về những hòn đảo - Rất nhiều học sinh đến bơi ở Oshima, - cô vũ nữ nói với người đàn bà bên cạnh.
- Tôi chắc là vào mùa hè, - tôi nhìn lại.
- Kể cả mùa đông, - nàng trả lời bằng giọng hầu như không thể nghe được.
- Ngay cả trong mùa đông?
Nàng nhìn người đàn bà khác và cười bí ẩn.
- Họ có thể bơi ngay trong mùa đông sao? - tôi lại hỏi.
Nàng đỏ mặt và khẽ gật đầu, nét mặt biểu lộ sự nghiêm túc.
- Đứa trẻ con đã ra khỏi đầu nó rồi đấy, - người đàn bà lớn tuổi cười vang.
Cách Yugano khoảng sáu, bảy dặm, con đường men theo dòng sông. Những rặng núi và thậm chí cả bầu trời như hướng về phương Nam khi chúng tôi xuống đèo. Người đàn ông và tôi bây giờ đã là bạn bè. Chúng tôi đi men qua rìa của một hoặc hai thôn làng và khi những mái nhà tranh của Yugano ở bên dưới hiện lên trong tầm mắt, tôi lấy hết can đảm để nói rằng tôi muốn tiếp tục đi cùng họ đến Shimoda. Anh ta hài lòng.
Phía trước một quán trọ tồi tàn, người đàn bà lớn tuổi nhất liếc nhìn tôi với vẻ dò hỏi như thể sao tôi không để họ một mình.
- Nhưng quý cậu đây muốn tiếp tục đi cùng chúng ta, - người đàn ông nói.
- Ồ, ra thế, - bà ta vui vẻ nói. - Tục ngữ dạy: Thêm bạn đường, thêm sự chia sẻ trong đời. Tôi cho là ngay cả những kẻ thấp hèn như chúng tôi cũng có thể làm cho chuyến đi thêm phần vui vẻ. Hãy vào đi. Chúng ta cùng uống trà và nghỉ ngơi.
Những phụ nữ trẻ hơn im lặng nhìn tôi và có phần rụt rè, như thể việc quyết định không liên quan đến họ.
Chúng tôi lên gác và đặt hành lý xuống. Đệm rơm và cửa đã mòn vẹt, bẩn thỉu. Cô vũ nữ bưng trà từ tầng dưới lên. Khi nàng đến chỗ tôi, tách trà kêu leng keng trên đĩa. Nàng cố đặt tách trà xuống gọn ghẽ bằng nỗ lực lớn của bản thân, nhưng lại làm tách trà nghiêng đổ. Tôi đã không chuẩn bị tâm thế trước sự lúng túng tột độ ấy.
- Xin cậu thứ lỗi. Con bé đến tuổi thừa tay thừa chân, - người đàn bà lớn tuổi nói, cau mày và đẩy miếng giẻ lau đến chỗ cô bé đang lo lắng lau chỗ trà đổ.
Lời nhắc nhở kì quặc này khiến tôi phân vân. Tôi cảm thấy niềm háo hức dâng lên bởi lời bình luận của bà lão trong quán trà bên kia đèo dịu xuống.
- Cái ấy làm bằng chất liệu tốt đấy, - người đàn bà lớn tuổi nói lúc xem xét phần trang trí trên áo kimono của tôi. - Nó giống hệt như của Tamiji, giống thật. Rất giống của Tamiji. - Bà ta nhắc đi nhắc lại câu nói nhiều lần, đoạn lại nói với tôi. - Chúng tôi gởi thằng bé ở trường. Cậu làm tôi nhớ nó. Cũng cùng kiểu trang in ấy. Dạo này chúng đắt lắm.
- Nó học lớp mấy?
- Lớp năm.
- Thằng bé ở tận Kofu, trong vùng núi. Chúng tôi chuyển đến Oshima lâu rồi nhưng quê thì ở Kofu.
Khoảng một giờ sau, người đàn ông đưa tôi sang quán trọ khác. Tôi đã nghĩ rằng tôi sẽ ở cùng họ. Chúng tôi leo xuống qua các tảng đá, các bậc cấp lát đá cao chừng một trăm mét trên con đường nhỏ. Có một nhà tắm công cộng trên bờ con sông nhỏ. Chỉ ngay sau nhà tắm là cây cầu dẫn đến khu vườn nhà trọ của tôi.
Chúng tôi đi tắm cùng nhau. Anh ta hai mươi ba tuổi, anh ta kể, vợ anh ta đã hai lần sẩy thai. Bởi vì anh ta mặc đồng phục Nagaoka nên tôi đoán anh ta sinh trưởng ở Nagaoka, khu vực phía Bắc bán đảo. Khuôn mặt và cách nói của anh ta không phải không có vẻ thông minh. Từ sự hiếu kì và ưa thích một cô trong đám phụ nữ kia, tôi đoán hẳn anh ta đi cùng để khuân vác hành lí.
Tôi ăn trưa khi chúng tôi đi tắm về. Chúng tôi rời Yugashima vào lúc tám giờ và bây giờ vẫn chưa đến ba giờ.
Trên đường về, anh ta chào tôi từ dưới vườn.
Tôi ném xuống phong bì đựng ít tiền.
- Tự mua cho mình ít hoa quả hay thứ gì đó. Thông cảm vì đã ném phong bì xuống.
Anh ta định bỏ đi mà không nhặt, nhưng rồi quay lại nhặt lên.
- Cậu đừng làm thế, - anh ta nói và ném trả phong bì.
Phong bì rơi xuống mái tranh. Tôi lại ném xuống. Lần này anh ta nhận.
Mưa nặng hạt bắt đầu rơi vào hoàng hôn. Những ngọn núi xám mờ, cảnh vật chìm nghỉm, nước sông mỗi lúc một sẫm vàng hơn, nhiều bùn hơn, nhiều tiếng ồn hơn. Tôi cảm thấy chắc chắn là các vũ nữ sẽ không ra khỏi nhà vào một tối như thế, nhưng tôi thì lại không thể ngồi yên. Hai hoặc ba lần tôi xuống tắm. Phòng tôi mờ tối. Một ngọn đèn treo trong ô hình chữ nhật, trổ bên trên những cánh cửa trượt ngăn phòng tôi với phòng bên cạnh, chiếu sáng cho cả hai phòng.
Lúc ấy, xa xa trong màn mưa, tôi nghe thấy một tiếng trống. Tôi đẩy toang cửa sổ, suýt giật tung nó ra khỏi khe kéo, rồi toài người ra ngoài. Tiếng trống như thể đang đến gần hơn. Mưa, kèm theo gió mạnh, quất vào mặt tôi. Tôi nhắm mắt và cố tập trung vào tiếng trống, vào nơi nó có thể, để xem nó có tiến về phía tôi. Thoáng chốc, tôi nghe tiếng đàn Shamisen, rồi thỉnh thoảng là tiếng một phụ nữ gọi ai đó hoặc một tràng cười ha hả. Nhóm vũ nữ được mời đến dự tiệc ở nhà hàng đối diện với nhà nghỉ của họ, dường như thế. Tôi có thể phân biệt được giọng của hai, ba phụ nữ và ba, bốn giọng đàn ông. Ngay khi họ kết thúc ở đó, tôi tự nhủ, họ sẽ đến đây. Bữa tiệc dường như đã vượt quá một cuộc vui vô hại để trở thành cuộc đập phá hỗn độn. Thỉnh thoảng giọng đàn bà lại kêu ré lên xuyên qua bóng tối như một nhát roi quất. Tôi ngồi cứng đờ, cứ căng người ra thêm trên gờ cửa sổ, mắt nhìn ra khung cửa mở rộng. Mỗi một tiếng trống tôi cảm nhận như là một sự trào dâng của niềm thư thái. "A, nàng vẫn ở đó. Nàng vẫn ở đó và chơi trống".
Cứ mỗi khi tiếng trống ngừng lại, bầu im lặng dường như không thể chịu đựng nổi. Như thể tôi đang bị nhấn chìm dưới cú đánh của cơn mưa.
Có lúc vang lên những bước chân loạn xạ - họ đang chơi trò đuổi bắt hay khiêu vũ? Rồi tiếp đó là hoàn toàn im lặng. Tôi chằm chằm nhìn vào bóng tối, cố tìm hiểu xem sự im lặng có nghĩa gì. Nàng đang làm gì, có ai đó làm nàng vấy bẩn trong suốt khoảng thời gian còn lại của đêm?
Tôi đóng cửa sổ và nằm xuống. Ngực tôi thắt lại đau đớn. Tôi xuống tắm lần nữa, vùng vẫy cật lực. Mưa đã dừng, vầng trăng ló ra. Bầu trời mùa thu, được nước mưa rửa sạch, ánh lên màu pha lê ở đằng xa. Tôi chợt nảy ra ý tưởng chạy chân trần đến tìm nàng. Thời gian đã quá hai giờ đêm.
3
Sáng hôm sau, vào lúc chín giờ anh bạn đồng hành qua
nhà nghỉ của tôi. Vừa ra khỏi giường, tôi rủ anh ta cùng đi tắm. Bên
dưới nhà tắm, dòng sông dâng đầy nước sau cơn mưa, ấm áp chảy trong ánh
nắng thu của miền Nam Izu. Nỗi khổ đau đêm trước của tôi dường như không
còn hiện hữu. Nhưng dẫu thế, tôi vẫn muốn nghe chuyện gì đã xảy ra.
- Tối qua bọn anh tiệc tùng vui vẻ nhỉ?
- Cậu có thể nghe chúng tôi à?
- Tôi có nghe.
- Cách địa phương. Họ ầm ĩ quá, nhưng chỉ ầm ĩ thôi. Dường như anh ta xem chuyện ấy là thường tình. Tôi chẳng nói thêm gì nữa.
- Kìa. Họ đến tắm rồi kìa, bên kia sông ấy. Thế nào họ cũng trông thấy chúng ta. Nhìn họ cười kìa. - Anh ta chỉ về phía nhà tắm công cộng, nơi có bảy, tám thân hình trần mờ mờ sau làn hơi nước.
Một thân hình bé nhỏ chạy ào ra dưới ánh nắng, dừng lại một lát trên mép ván nhảy, gọi to điều gì đó với chúng tôi, hai tay đưa lên như thể chuẩn bị nhảy lộn đầu xuống nước. Đấy là cô vũ nữ, cơ thể nàng trần truồng, thậm chí không quấn cả khăn tắm. Tôi nhìn nàng, nhìn đôi chân non trẻ, nhìn thân hình trắng muốt như tạc và bỗng nhiên như thể có một suối nước tinh khiết rửa sạch tim tôi.
Tôi cười vang, hạnh phúc. Nàng hãy còn bé bỏng, chỉ là một cô bé, trẻ con thì mới có thể trần truồng chạy ra ngoài nắng và nhón chân đứng đó, thoải mái nhìn bạn bè. Tôi buông tiếng cười khẽ, đầy hạnh phúc. Điều đó như thể lớp bụi bẩn đã được rửa sạch khỏi đầu tôi. Tôi cứ cười mãi. Bởi vì mái tóc được búi cao nên trông nàng như thể già hơn và cũng bởi vì nàng được cho ăn vận theo kiểu một cô gái mười sáu mười bảy tuổi. Sự thực là tôi đã nhầm lẫn quá mức.
Chúng tôi quay trở lại phòng tôi khi cô lớn hơn trong hai thiếu nữ đến ngắm hoa cúc trong vườn. Cô vũ nữ bé bỏng đi theo, cô ta đang qua được nửa cầu. Mắt nàng nhìn cả hai người, người đàn bà lớn tuổi đã ra tắm. Cô vũ nữ nhún vai rồi chạy lùi lại, như muốn nói nàng sẽ bị la rầy nếu đến gần hơn. Người đàn bà lớn tuổi bước lên cầu.
- Sang đây đi, - bà ta gọi tôi.
- Sang đây đi, - cô thiếu nữ trẻ hơn nhắc lại, rồi cả hai quay lại, đi về phía nhà nghỉ của họ.
Anh bạn đồng hành ở lại trong phòng tôi cho đến chiều tối.
Tối hôm ấy, lúc đang chơi cờ Go với một tay buôn giấy đi du lịch thì tôi nghe tiếng trống trong vườn. Tôi dợm bước ra hiên.
- Ông không muốn xem họ à?
- Cái bọn ngốc ấy. Đến lượt anh đấy. Tôi đánh đây này. - Mải mê ván cờ, tay lái buôn chúi mũi vào bàn cờ.
Tôi bồn chồn, những người biểu diễn như thể sắp rời đi.
- Xin chào, - anh bạn đồng hành gọi với lên.
Tôi bước ra hiên và mời anh ta vào. Sau hồi thì thào bàn bạc, họ tiến vào cửa. Anh bạn đồng đi trước. Theo đúng tuổi tác họ thực hành nghi thức chào hỏi từ ngoài hiên theo kiểu geisha. Bỗng hóa ra là tôi sắp thua ván cờ.
- Bí quá . Tôi thua.
- Ồ thôi nào. Tôi đánh tồi hơn cậu, chỉ mới bí thôi, nghĩ nước khác đi.
Không buồn để ý chút nào đến những người biểu diễn, tay buôn giấy đếm những quân cờ bằng đá và chơi với sự tập trung lớn hơn. Nhạc cụ của họ xếp gọn trong góc phòng, những người biểu diễn chơi cờ trên bàn cờ khác. Đấy là kiểu chơi đơn giản hơn, chỉ xếp những quân cờ thành hàng. Tôi nhanh chóng chịu thua ván cờ mà thực tế tôi sắp thắng.
- Ván nữa chứ? - tay buôn giấy nói. - Ta chơi thêm ván nữa đi.
Nhưng tôi chỉ cười lảng, lát sau ông ta đành chịu và ra về.
Những người phụ nữ đến gần hơn.
- Tối nay các bạn đã có hẹn chỗ nào chưa?
- Ta định thế nào đây? - anh bạn đồng hành hỏi cánh phụ nữ.
- Thế nào nhỉ? Có lẽ chúng ta nên đề xuất nghỉ một tối.
- Tuyệt quá, - cô vũ nữ nói.
- Mày không muốn bị mắng à?
- Dẫu có cố thì chúng ta cũng không tìm được khách.
Họ ở lại cho đến quá nửa đêm, thay phiên nhau đánh cờ Go.
Sau khi họ ra về, tôi cảm thấy tỉnh táo và hưng phấn. Tôi không thể ngủ. Tôi gọi tay buôn giấy, người khoảng sáu mươi tuổi.
Ông ta ra ngay, sẵn sàng đấu cờ.
- Tối nay chúng ta sẽ đánh thâu đêm. Chúng ta sẽ đánh đến sáng. - Tôi cảm thấy mình không thể bị đánh bại.
- Tối qua bọn anh tiệc tùng vui vẻ nhỉ?
- Cậu có thể nghe chúng tôi à?
- Tôi có nghe.
- Cách địa phương. Họ ầm ĩ quá, nhưng chỉ ầm ĩ thôi. Dường như anh ta xem chuyện ấy là thường tình. Tôi chẳng nói thêm gì nữa.
- Kìa. Họ đến tắm rồi kìa, bên kia sông ấy. Thế nào họ cũng trông thấy chúng ta. Nhìn họ cười kìa. - Anh ta chỉ về phía nhà tắm công cộng, nơi có bảy, tám thân hình trần mờ mờ sau làn hơi nước.
Một thân hình bé nhỏ chạy ào ra dưới ánh nắng, dừng lại một lát trên mép ván nhảy, gọi to điều gì đó với chúng tôi, hai tay đưa lên như thể chuẩn bị nhảy lộn đầu xuống nước. Đấy là cô vũ nữ, cơ thể nàng trần truồng, thậm chí không quấn cả khăn tắm. Tôi nhìn nàng, nhìn đôi chân non trẻ, nhìn thân hình trắng muốt như tạc và bỗng nhiên như thể có một suối nước tinh khiết rửa sạch tim tôi.
Tôi cười vang, hạnh phúc. Nàng hãy còn bé bỏng, chỉ là một cô bé, trẻ con thì mới có thể trần truồng chạy ra ngoài nắng và nhón chân đứng đó, thoải mái nhìn bạn bè. Tôi buông tiếng cười khẽ, đầy hạnh phúc. Điều đó như thể lớp bụi bẩn đã được rửa sạch khỏi đầu tôi. Tôi cứ cười mãi. Bởi vì mái tóc được búi cao nên trông nàng như thể già hơn và cũng bởi vì nàng được cho ăn vận theo kiểu một cô gái mười sáu mười bảy tuổi. Sự thực là tôi đã nhầm lẫn quá mức.
Chúng tôi quay trở lại phòng tôi khi cô lớn hơn trong hai thiếu nữ đến ngắm hoa cúc trong vườn. Cô vũ nữ bé bỏng đi theo, cô ta đang qua được nửa cầu. Mắt nàng nhìn cả hai người, người đàn bà lớn tuổi đã ra tắm. Cô vũ nữ nhún vai rồi chạy lùi lại, như muốn nói nàng sẽ bị la rầy nếu đến gần hơn. Người đàn bà lớn tuổi bước lên cầu.
- Sang đây đi, - bà ta gọi tôi.
- Sang đây đi, - cô thiếu nữ trẻ hơn nhắc lại, rồi cả hai quay lại, đi về phía nhà nghỉ của họ.
Anh bạn đồng hành ở lại trong phòng tôi cho đến chiều tối.
Tối hôm ấy, lúc đang chơi cờ Go với một tay buôn giấy đi du lịch thì tôi nghe tiếng trống trong vườn. Tôi dợm bước ra hiên.
- Ông không muốn xem họ à?
- Cái bọn ngốc ấy. Đến lượt anh đấy. Tôi đánh đây này. - Mải mê ván cờ, tay lái buôn chúi mũi vào bàn cờ.
Tôi bồn chồn, những người biểu diễn như thể sắp rời đi.
- Xin chào, - anh bạn đồng hành gọi với lên.
Tôi bước ra hiên và mời anh ta vào. Sau hồi thì thào bàn bạc, họ tiến vào cửa. Anh bạn đồng đi trước. Theo đúng tuổi tác họ thực hành nghi thức chào hỏi từ ngoài hiên theo kiểu geisha. Bỗng hóa ra là tôi sắp thua ván cờ.
- Bí quá . Tôi thua.
- Ồ thôi nào. Tôi đánh tồi hơn cậu, chỉ mới bí thôi, nghĩ nước khác đi.
Không buồn để ý chút nào đến những người biểu diễn, tay buôn giấy đếm những quân cờ bằng đá và chơi với sự tập trung lớn hơn. Nhạc cụ của họ xếp gọn trong góc phòng, những người biểu diễn chơi cờ trên bàn cờ khác. Đấy là kiểu chơi đơn giản hơn, chỉ xếp những quân cờ thành hàng. Tôi nhanh chóng chịu thua ván cờ mà thực tế tôi sắp thắng.
- Ván nữa chứ? - tay buôn giấy nói. - Ta chơi thêm ván nữa đi.
Nhưng tôi chỉ cười lảng, lát sau ông ta đành chịu và ra về.
Những người phụ nữ đến gần hơn.
- Tối nay các bạn đã có hẹn chỗ nào chưa?
- Ta định thế nào đây? - anh bạn đồng hành hỏi cánh phụ nữ.
- Thế nào nhỉ? Có lẽ chúng ta nên đề xuất nghỉ một tối.
- Tuyệt quá, - cô vũ nữ nói.
- Mày không muốn bị mắng à?
- Dẫu có cố thì chúng ta cũng không tìm được khách.
Họ ở lại cho đến quá nửa đêm, thay phiên nhau đánh cờ Go.
Sau khi họ ra về, tôi cảm thấy tỉnh táo và hưng phấn. Tôi không thể ngủ. Tôi gọi tay buôn giấy, người khoảng sáu mươi tuổi.
Ông ta ra ngay, sẵn sàng đấu cờ.
- Tối nay chúng ta sẽ đánh thâu đêm. Chúng ta sẽ đánh đến sáng. - Tôi cảm thấy mình không thể bị đánh bại.
4
Chúng tôi sẽ rời Yugano vào tám giờ sáng hôm sau. Tôi
nhét cái mũ học sinh vào túi sách, đội chiếc mũ săn vừa mua trong cửa
hàng không xa nhà tắm công cộng rồi đi đến nhà nghỉ của họ bằng đường
cao tốc. Tôi tự tin đi lên tầng trên - cửa tầng hai đều mở rộng - nhưng
tôi dừng lại một lát trên hành lang. Họ vẫn đang ngủ.
Cô vũ nữ gần như nằm ngay sát chân tôi, chung đệm trải giương với cô thiếu nữ trẻ nhất. Nàng đỏ bừng mặt và vội đưa tay lên che. Vết son phấn trang điểm đậm từ tối qua vẫn còn vương lại, màu hồng trên môi và các chấm hồng quanh đuôi mắt. Dáng điệu nằm ngả người ấy như thể tuôn tràn về phía tôi cả làn sóng sắc màu và ánh sáng. Như thể bị lóa bởi ánh sáng ban mai, nàng lật người, trườn ra khỏi đệm, hai bàn tay vẫn che mặt. Đoạn nàng quỳ xuống hiên nhà và cảm ơn tôi về buổi tối hôm qua. Tôi đứng sững trước nàng, lóng ngóng.
Người đàn ông và cô thiếu nữ lớn tuổi hơn đang ngủ với nhau. Chắc họ đã cưới nhau. Trước đây, tôi không nghĩ đến khả năng này.
- Mong cậu thứ lỗi cho chúng tôi, - người đàn bà lớn tuổi nói lúc đang ngồi dậy trên đệm. - Chúng tôi muốn rời đi từ sáng nhưng tối nay có lẽ có một bữa tiệc nên chúng tôi nghĩ người ta sẽ mời chúng tôi. Vì vậy chúng ta có thể hẹn gặp nhau ở Shimoda nếu cậu buộc phải đi trước. Chúng tôi luôn ở lại nhà nghỉ Koshu. Cậu dễ dàng tìm ra nó.
Tôi cảm thấy như bị bỏ rơi.
- Hoặc cậu có thể đợi đến sáng mai, - người đàn ông nói. - Mẹ bảo chúng tôi phải ở lại thêm một ngày nữa. Nhưng nếu có bạn đồng hành thì hay biết mấy. Để mai ta cùng đi với nhau.
- Ý tưởng hay đấy, - người đàn bà tán thành. - Kể từ khi quen biết cậu, hôm nay thật là xấu hổ. Ngày mai, chúng tôi sẽ lên đường ngay cả khi trời đổ mưa ngăn cản. Ngày kia đã là bốn chín ngày kể từ khi đứa bé chết. Chúng tôi luôn tâm nguyện sẽ làm giỗ nó ở Shimoda để chứng tỏ chúng tôi vẫn nhớ nó và chúng tôi luôn vội để đến đó đúng ngày. Chúng tôi rất cảm kích khi có cậu đi cùng. Tôi không chắc nhưng nghĩ là có một lí do cho chuyến đi, cái chúng ta có được theo cách này là tình bằng hữu. Tôi đồng ý đợi thêm một ngày nữa. Tôi xuống tầng dưới, ngồi trong văn phòng bé nhỏ bẩn thỉu nói chuyện với tay quản lý trong lúc đợi họ mặc áo quần. Thoáng chốc, người đàn ông xuống và chúng tôi đi bộ đến cây cầu xinh xắn nằm ở phía Nam thị trấn. Anh ta tựa lưng vào lan can cầu và kể về bản thân. Ở Tokyo, anh ta là thành viên của đoàn kịch hiện đại. Thậm chí bây giờ thỉnh thoảng anh ta cũng xuất hiện trên các sàn diễn nghiệp dư ở Oshima, trong lúc tại các bữa tiệc đọc đường nếu được gọi thì anh chỉ đóng vai bắt chước các nghệ sĩ. Cái vật lồi lên nom giống một cánh tay kì lạ từ một trong các túi hành lý là thanh gươm biểu diễn, anh ta giải thích, còn cái hòm mây thì đựng cả đồ gia dụng và trang phục.
- Tôi đã phạm phải sai lầm và tự làm hỏng đời mình. Anh tôi quản lý gia đình ở Kofu, còn tôi thì chẳng có ích gì nhiều ở đó.
- Tôi tưởng anh là người Nagaoka.
- Tôi không phải. Đó là quê vợ tôi, cô lớn tuổi hơn trong hai cô gái. Cô kém cậu một tuổi. Hè năm nay, cô bị sẩy thai đứa thứ hai trên đường. Đứa bé chỉ sống được một tuần, cô vẫn chưa bình phục hẳn. Người đàn bà lớn tuổi là mẹ cô ấy, còn cô bé là em - Anh từng nói là anh có một cô em gái - mười ba tuổi?
- Con bé ấy đấy. Tôi đã cố xoay xở để không cho nó theo nghề này, nhưng lại không thể.
Anh ta nói tên anh ta là Eikichi, vợ anh ta là Chiyoko, còn cô vũ nữ, em gái anh ta là Kaoru. Cô kia, Yuriko, là người giúp việc. Cô ta mười sáu tuổi và là thành viên duy nhất trong số họ quê ở Oshima. Eikichi đang xúc động về điều gì đó. Anh ta đăm đăm nhìn xuống dòng sông, có lúc tôi nghĩ anh ta suýt khóc.
Trên lối về, ngay lúc vừa rời khỏi con đường, chúng tôi thấy cô vũ nữ bé bỏng đang chơi đùa với con chó. Nàng đã rửa sạch phấn trang điểm.
- Đến chỗ anh đi, - tôi gọi lúc đang quay về quán trọ.
- Một mình em không thể đến.
- Cứ đi cùng anh trai.
- Cảm ơn ông. Em sẽ đến ngay.
Lát sau, Eikichi xuất hiện.
- Những người khác đâu rồi?
- Họ không thể rời khỏi Mẹ.
Nhưng cả ba người đến, lách cách qua cầu, lên cầu thang trong lúc chúng tôi đang bên bàn cờ Go, chơi ván cờ có nước đi dễ hơn.
Sau khi cúi chào theo đúng nghi lễ họ rụt rè đợi trong phòng.
Chiyoko vào đầu tiên.
- Làm ơn, làm ơn, - cô ta vui vẻ gọi mấy người kia.
- Các người không cần phải quá nghi thức trong phòng tôi!
Khoảng một giờ sau, bọn họ kéo nhau đi tắm. Họ muốn tôi phải đi cùng, họ tha thiết đề nghị, nhưng cái ý tưởng đi tắm cùng ba phụ nữ trẻ là điều gì đó khiến người ta đâm hoảng. Tôi nói tôi sẽ đi sau. Lát sau, cô vũ nữ bé bỏng lại trở lên gác.
- Chiyoko bảo chị sẽ kì lưng ông nếu ông cùng xuống tắm.
Thay vì đi tắm, nàng ngồi lại với tôi, hai đứa chơi cờ theo kiểu sắp quân cờ thành hàng. Nàng chơi giỏi kì lạ. Trong hàng loạt ván, tôi chẳng hề gặp chút khó khăn nào khi đánh với Eikichi và những phụ nữ khác. Tôi thực sự có thể đánh bại hầu hết mọi người nhưng lại gặp rắc rối với nàng. Sẽ là thoải mái khi không phải tính toán để chơi thua một ván cờ. Thoạt tiên, dáng ngồi đúng lễ nghi, lưng thẳng, tay vươn ra chơi cờ, song chẳng mấy chốc nàng quên bẵng, mê mải cúi hẳn người lên bàn cờ. Mái tóc của nàng, dày đến nỗi dường như không thực, gần chạm vào ngực tôi. Đột nhiên nàng đỏ bừng mặt.
- Em xin lỗi. Em sẽ bị mắng vì việc này.
Rồi nàng bỏ chạy ra khỏi phòng lúc ván cờ đang lỡ dở. Người đàn bà lớn tuổi đang đứng cạnh nhà tắm công cộng bên kia sông.
Chiyoko và Yuriko lục đục ra khỏi phòng tắm tầng dưới gần như cùng lúc và rút lui qua cầu mà không chào tạm biệt tôi.
Eikichi lại ở suốt ngày trong phòng trọ của tôi, mặc dù vợ tay quản lý, một phụ nữ khó tính, đã bày tỏ ý kiến rằng chỉ có phí thức ăn ngon khi mời những người như thế.
Cô vũ nữ đang tập đàn Shamisen khi tôi đến nhà nghỉ của họ theo lối đường cao tốc vào tối hôm ấy. Nàng đặt đàn xuống khi nhìn thấy tôi nhưng người phụ nữ lớn tuổi bảo, nàng lại nâng đàn lên. Nàng vừa đánh đàn vừa hát. Khi nào giọng nàng hơi cao hơn một chút, người đàn bà kia liền mắng:
- Mẹ đã nhắc con phải hạ giọng xuống bao nhiêu lần rồi.
Chúng tôi có thể nhìn thấy Eikichi trên tầng hai của nhà hàng đối diện bên kia đường. Anh ta đang hò la điều gì đó phục vụ cho bữa tiệc tối.
- Trò quái quỷ gì kia vậy?
- Trò gì hả? Anh ta đang kể chi tiết một vở kịch Noh.
- Thật đúng là trò kì quặc đang được thực hiện.
- Ồ anh ấy có lắm tài vặt. Cậu chẳng thể nào biết được anh ta sắp giở trò gì đâu.
Một người đàn ông khoảng bốn mươi tuổi đẩy rộng cửa. Ông ta thuê phòng tại nhà nghỉ ấy và nghe bảo là làm nghề buôn gia cầm. Ông ta ngỏ lời mời cánh phụ nữ đến phòng mình dùng món ăn. Các vũ nữ và Yuriko cầm đũa sang ăn nốt món gà hầm còn thừa. Khi họ quay lại, ông ta khẽ chạm tay lên vai cô vũ nữ.
- Ông chớ có đụng vào nó, - người đàn bà lớn tuổi nói trong lúc cau mày giận dữ. - Chưa một ai được đụng vào nó.
Xem ông ta như là bạn vong niên, cô vũ nữ đề nghị ông ta đọc cuốn Chuyện phiêu lưu của Nghị viên Mito. Ông ta phải vội về ngay. Xấu hổ về việc trực tiếp nhờ tôi, nàng nhiều lần nhắc đi nhắc lại giá mà có ai đó vui lòng nhận lời đề nghị mà đọc tiếp thì thì thú biết bao. Tôi hạnh phúc cầm quyển sách, niềm hi vọng thầm kín trỗi dậy trong tôi. Tôi đã không thất vọng. Đầu nàng gần như chạm vai tôi khi tôi bắt đầu đọc. Nàng ngước nhìn tôi với dáng vẻ háo hức nghiêm trang, mắt nàng rực sáng và không chớp. Đó dường như là tính cách nàng khi ai đó đọc cho nàng nghe. Mặt nàng chắc cũng đã từng gần chạm mặt của tay buôn gia cầm khi ông ta đọc. Tôi nghĩ đến điều đó. Đôi mắt to của nàng đen nháy, là nét ấn tượng nhất từ nàng. Nếp mi mắt thì không bút nào tả xiết. Và tiếng cười của nàng - tiếng cười của một bông hoa - phong thái nàng dường như luôn thư thái mỗi khi tôi hình dung về nàng.
Tôi vừa đọc chỉ chừng vài phút thì cô giúp việc bên nhà hàng sang gọi nàng.
- Em sẽ quay lại ngay, - nàng nói trong lúc chuẩn bị. - Xin đừng đi đâu cả. Em muốn nghe đoạn còn lại.
Nàng quỳ xuống hiên chào theo nghi lễ trước khi rời đi.
- Con nhớ là không được hát, - người đàn bà lớn tuổi nói.
Cầm lấy trống, nàng khẽ gật đầu.
- Nó đang ở độ tuổi dậy thì. Giọng đang vỡ.
Chúng tôi có thể nhìn từ cô vũ nữ như thể cô đang ở phòng bên cạnh. Nàng quỳ gối bên trống, lưng quay về phía chúng tôi.
Nhịp trống dâng ngập hồn tôi cảm xúc bồi hồi trong sáng.
- Bữa tiệc sẽ luôn sôi động lên khi tiếng trống vang lên, - người đàn bà nói.
Chiyoko và Yuriko cũng sang nhà hàng. Khoảng một tiếng sau, cả bốn người cùng về.
- Đây là tất cả họ trả cho chúng ta, - cô vũ nữ hồn nhiên thả năm mươi xen từ bàn tay nắm chặt của mình vào tay người đàn bà.
Tôi đọc tiếp câu chuyện, còn họ thì nói về đứa bé đã chết. Lúc sinh, nó trong suốt như nước. Nó không đủ sức để khóc, nhưng lại có thể sống ngót một tuần.
Tôi không bị lôi cuốn bởi sự hiếu kì và tôi cũng không có thái độ cư xử trịch thượng đối với họ. Sự thật, tôi không hề nghĩ họ thuộc về đẳng cấp thấp, những nghệ sĩ rong. Họ dường như thấu hiểu và cảm động. Họ quyết định rằng tôi phải ghé thăm họ ở Oshima.
- Chúng ta có thể đón cậu tại nhà ông cụ. - Họ nói to kế hoạch. - Nhà ấy mới đủ rộng và nếu ta chuyển cụ đi nơi khác thì đủ yên tĩnh để cậu ấy học lâu đến chừng nào cậu ấy có thể ở lại.
- Chúng tôi có hai ngôi nhà nhỏ, chúng tôi sẽ dành cho cậu ngôi nhà trên núi. Ngôi nhà thoáng mát và xinh xắn.
Họ cũng quyết định rằng tôi sẽ phụ giúp trong vở kịch họ diễn ở Oshima nhân dịp năm mới.
Tôi dần hiểu ra cuộc sống của cánh nghệ sĩ rong không vất vả như tôi từng tưởng. Không hề có lo âu mà chỉ là thư thái, ngập trong hương vị của cây cỏ và núi đồi. Cả điều này nữa, nhóm nghệ sĩ còn được gắn kết bởi quan hệ tình cảm gia đình gần gũi. Duy chỉ có Yuriko, cô gái làm thuê - có lẽ đã ở vào độ tuổi biết xấu hổ - dường như không thoải mái trước sự hiện diện của tôi.
Đã quá nửa đêm khi tôi rời nhà nghỉ của họ. Ba người trẻ tuổi tiễn tôi ra đến cửa. Cô vũ nữ bé bỏng xoay đôi dép để tôi có thể xỏ thẳng vào mà không cần phải xoay chân. Nàng tựa vào ngưỡng cửa và ngước nhìn lên bầu trời quang đãng.
- Mặt trăng đã lên. Ngày mai chúng ta sẽ ở Shimoda. Em yêu Shimoda. Chúng ta sẽ cầu kinh cho đứa bé, và Mẹ sẽ mua cho em chiếc lược như đã hứa, rồi còn mọi công việc chúng ta có thể làm sau đó. Ông có đưa em đi xem phim không?
Có điều gì đó về Shimoda mà dường như đã khiến nó trở thành mái nhà trong suốt chặng đường các nghệ sĩ rong lang thang bên những suối nước nóng vùng Izu và Sagami.
Cô vũ nữ gần như nằm ngay sát chân tôi, chung đệm trải giương với cô thiếu nữ trẻ nhất. Nàng đỏ bừng mặt và vội đưa tay lên che. Vết son phấn trang điểm đậm từ tối qua vẫn còn vương lại, màu hồng trên môi và các chấm hồng quanh đuôi mắt. Dáng điệu nằm ngả người ấy như thể tuôn tràn về phía tôi cả làn sóng sắc màu và ánh sáng. Như thể bị lóa bởi ánh sáng ban mai, nàng lật người, trườn ra khỏi đệm, hai bàn tay vẫn che mặt. Đoạn nàng quỳ xuống hiên nhà và cảm ơn tôi về buổi tối hôm qua. Tôi đứng sững trước nàng, lóng ngóng.
Người đàn ông và cô thiếu nữ lớn tuổi hơn đang ngủ với nhau. Chắc họ đã cưới nhau. Trước đây, tôi không nghĩ đến khả năng này.
- Mong cậu thứ lỗi cho chúng tôi, - người đàn bà lớn tuổi nói lúc đang ngồi dậy trên đệm. - Chúng tôi muốn rời đi từ sáng nhưng tối nay có lẽ có một bữa tiệc nên chúng tôi nghĩ người ta sẽ mời chúng tôi. Vì vậy chúng ta có thể hẹn gặp nhau ở Shimoda nếu cậu buộc phải đi trước. Chúng tôi luôn ở lại nhà nghỉ Koshu. Cậu dễ dàng tìm ra nó.
Tôi cảm thấy như bị bỏ rơi.
- Hoặc cậu có thể đợi đến sáng mai, - người đàn ông nói. - Mẹ bảo chúng tôi phải ở lại thêm một ngày nữa. Nhưng nếu có bạn đồng hành thì hay biết mấy. Để mai ta cùng đi với nhau.
- Ý tưởng hay đấy, - người đàn bà tán thành. - Kể từ khi quen biết cậu, hôm nay thật là xấu hổ. Ngày mai, chúng tôi sẽ lên đường ngay cả khi trời đổ mưa ngăn cản. Ngày kia đã là bốn chín ngày kể từ khi đứa bé chết. Chúng tôi luôn tâm nguyện sẽ làm giỗ nó ở Shimoda để chứng tỏ chúng tôi vẫn nhớ nó và chúng tôi luôn vội để đến đó đúng ngày. Chúng tôi rất cảm kích khi có cậu đi cùng. Tôi không chắc nhưng nghĩ là có một lí do cho chuyến đi, cái chúng ta có được theo cách này là tình bằng hữu. Tôi đồng ý đợi thêm một ngày nữa. Tôi xuống tầng dưới, ngồi trong văn phòng bé nhỏ bẩn thỉu nói chuyện với tay quản lý trong lúc đợi họ mặc áo quần. Thoáng chốc, người đàn ông xuống và chúng tôi đi bộ đến cây cầu xinh xắn nằm ở phía Nam thị trấn. Anh ta tựa lưng vào lan can cầu và kể về bản thân. Ở Tokyo, anh ta là thành viên của đoàn kịch hiện đại. Thậm chí bây giờ thỉnh thoảng anh ta cũng xuất hiện trên các sàn diễn nghiệp dư ở Oshima, trong lúc tại các bữa tiệc đọc đường nếu được gọi thì anh chỉ đóng vai bắt chước các nghệ sĩ. Cái vật lồi lên nom giống một cánh tay kì lạ từ một trong các túi hành lý là thanh gươm biểu diễn, anh ta giải thích, còn cái hòm mây thì đựng cả đồ gia dụng và trang phục.
- Tôi đã phạm phải sai lầm và tự làm hỏng đời mình. Anh tôi quản lý gia đình ở Kofu, còn tôi thì chẳng có ích gì nhiều ở đó.
- Tôi tưởng anh là người Nagaoka.
- Tôi không phải. Đó là quê vợ tôi, cô lớn tuổi hơn trong hai cô gái. Cô kém cậu một tuổi. Hè năm nay, cô bị sẩy thai đứa thứ hai trên đường. Đứa bé chỉ sống được một tuần, cô vẫn chưa bình phục hẳn. Người đàn bà lớn tuổi là mẹ cô ấy, còn cô bé là em - Anh từng nói là anh có một cô em gái - mười ba tuổi?
- Con bé ấy đấy. Tôi đã cố xoay xở để không cho nó theo nghề này, nhưng lại không thể.
Anh ta nói tên anh ta là Eikichi, vợ anh ta là Chiyoko, còn cô vũ nữ, em gái anh ta là Kaoru. Cô kia, Yuriko, là người giúp việc. Cô ta mười sáu tuổi và là thành viên duy nhất trong số họ quê ở Oshima. Eikichi đang xúc động về điều gì đó. Anh ta đăm đăm nhìn xuống dòng sông, có lúc tôi nghĩ anh ta suýt khóc.
Trên lối về, ngay lúc vừa rời khỏi con đường, chúng tôi thấy cô vũ nữ bé bỏng đang chơi đùa với con chó. Nàng đã rửa sạch phấn trang điểm.
- Đến chỗ anh đi, - tôi gọi lúc đang quay về quán trọ.
- Một mình em không thể đến.
- Cứ đi cùng anh trai.
- Cảm ơn ông. Em sẽ đến ngay.
Lát sau, Eikichi xuất hiện.
- Những người khác đâu rồi?
- Họ không thể rời khỏi Mẹ.
Nhưng cả ba người đến, lách cách qua cầu, lên cầu thang trong lúc chúng tôi đang bên bàn cờ Go, chơi ván cờ có nước đi dễ hơn.
Sau khi cúi chào theo đúng nghi lễ họ rụt rè đợi trong phòng.
Chiyoko vào đầu tiên.
- Làm ơn, làm ơn, - cô ta vui vẻ gọi mấy người kia.
- Các người không cần phải quá nghi thức trong phòng tôi!
Khoảng một giờ sau, bọn họ kéo nhau đi tắm. Họ muốn tôi phải đi cùng, họ tha thiết đề nghị, nhưng cái ý tưởng đi tắm cùng ba phụ nữ trẻ là điều gì đó khiến người ta đâm hoảng. Tôi nói tôi sẽ đi sau. Lát sau, cô vũ nữ bé bỏng lại trở lên gác.
- Chiyoko bảo chị sẽ kì lưng ông nếu ông cùng xuống tắm.
Thay vì đi tắm, nàng ngồi lại với tôi, hai đứa chơi cờ theo kiểu sắp quân cờ thành hàng. Nàng chơi giỏi kì lạ. Trong hàng loạt ván, tôi chẳng hề gặp chút khó khăn nào khi đánh với Eikichi và những phụ nữ khác. Tôi thực sự có thể đánh bại hầu hết mọi người nhưng lại gặp rắc rối với nàng. Sẽ là thoải mái khi không phải tính toán để chơi thua một ván cờ. Thoạt tiên, dáng ngồi đúng lễ nghi, lưng thẳng, tay vươn ra chơi cờ, song chẳng mấy chốc nàng quên bẵng, mê mải cúi hẳn người lên bàn cờ. Mái tóc của nàng, dày đến nỗi dường như không thực, gần chạm vào ngực tôi. Đột nhiên nàng đỏ bừng mặt.
- Em xin lỗi. Em sẽ bị mắng vì việc này.
Rồi nàng bỏ chạy ra khỏi phòng lúc ván cờ đang lỡ dở. Người đàn bà lớn tuổi đang đứng cạnh nhà tắm công cộng bên kia sông.
Chiyoko và Yuriko lục đục ra khỏi phòng tắm tầng dưới gần như cùng lúc và rút lui qua cầu mà không chào tạm biệt tôi.
Eikichi lại ở suốt ngày trong phòng trọ của tôi, mặc dù vợ tay quản lý, một phụ nữ khó tính, đã bày tỏ ý kiến rằng chỉ có phí thức ăn ngon khi mời những người như thế.
Cô vũ nữ đang tập đàn Shamisen khi tôi đến nhà nghỉ của họ theo lối đường cao tốc vào tối hôm ấy. Nàng đặt đàn xuống khi nhìn thấy tôi nhưng người phụ nữ lớn tuổi bảo, nàng lại nâng đàn lên. Nàng vừa đánh đàn vừa hát. Khi nào giọng nàng hơi cao hơn một chút, người đàn bà kia liền mắng:
- Mẹ đã nhắc con phải hạ giọng xuống bao nhiêu lần rồi.
Chúng tôi có thể nhìn thấy Eikichi trên tầng hai của nhà hàng đối diện bên kia đường. Anh ta đang hò la điều gì đó phục vụ cho bữa tiệc tối.
- Trò quái quỷ gì kia vậy?
- Trò gì hả? Anh ta đang kể chi tiết một vở kịch Noh.
- Thật đúng là trò kì quặc đang được thực hiện.
- Ồ anh ấy có lắm tài vặt. Cậu chẳng thể nào biết được anh ta sắp giở trò gì đâu.
Một người đàn ông khoảng bốn mươi tuổi đẩy rộng cửa. Ông ta thuê phòng tại nhà nghỉ ấy và nghe bảo là làm nghề buôn gia cầm. Ông ta ngỏ lời mời cánh phụ nữ đến phòng mình dùng món ăn. Các vũ nữ và Yuriko cầm đũa sang ăn nốt món gà hầm còn thừa. Khi họ quay lại, ông ta khẽ chạm tay lên vai cô vũ nữ.
- Ông chớ có đụng vào nó, - người đàn bà lớn tuổi nói trong lúc cau mày giận dữ. - Chưa một ai được đụng vào nó.
Xem ông ta như là bạn vong niên, cô vũ nữ đề nghị ông ta đọc cuốn Chuyện phiêu lưu của Nghị viên Mito. Ông ta phải vội về ngay. Xấu hổ về việc trực tiếp nhờ tôi, nàng nhiều lần nhắc đi nhắc lại giá mà có ai đó vui lòng nhận lời đề nghị mà đọc tiếp thì thì thú biết bao. Tôi hạnh phúc cầm quyển sách, niềm hi vọng thầm kín trỗi dậy trong tôi. Tôi đã không thất vọng. Đầu nàng gần như chạm vai tôi khi tôi bắt đầu đọc. Nàng ngước nhìn tôi với dáng vẻ háo hức nghiêm trang, mắt nàng rực sáng và không chớp. Đó dường như là tính cách nàng khi ai đó đọc cho nàng nghe. Mặt nàng chắc cũng đã từng gần chạm mặt của tay buôn gia cầm khi ông ta đọc. Tôi nghĩ đến điều đó. Đôi mắt to của nàng đen nháy, là nét ấn tượng nhất từ nàng. Nếp mi mắt thì không bút nào tả xiết. Và tiếng cười của nàng - tiếng cười của một bông hoa - phong thái nàng dường như luôn thư thái mỗi khi tôi hình dung về nàng.
Tôi vừa đọc chỉ chừng vài phút thì cô giúp việc bên nhà hàng sang gọi nàng.
- Em sẽ quay lại ngay, - nàng nói trong lúc chuẩn bị. - Xin đừng đi đâu cả. Em muốn nghe đoạn còn lại.
Nàng quỳ xuống hiên chào theo nghi lễ trước khi rời đi.
- Con nhớ là không được hát, - người đàn bà lớn tuổi nói.
Cầm lấy trống, nàng khẽ gật đầu.
- Nó đang ở độ tuổi dậy thì. Giọng đang vỡ.
Chúng tôi có thể nhìn từ cô vũ nữ như thể cô đang ở phòng bên cạnh. Nàng quỳ gối bên trống, lưng quay về phía chúng tôi.
Nhịp trống dâng ngập hồn tôi cảm xúc bồi hồi trong sáng.
- Bữa tiệc sẽ luôn sôi động lên khi tiếng trống vang lên, - người đàn bà nói.
Chiyoko và Yuriko cũng sang nhà hàng. Khoảng một tiếng sau, cả bốn người cùng về.
- Đây là tất cả họ trả cho chúng ta, - cô vũ nữ hồn nhiên thả năm mươi xen từ bàn tay nắm chặt của mình vào tay người đàn bà.
Tôi đọc tiếp câu chuyện, còn họ thì nói về đứa bé đã chết. Lúc sinh, nó trong suốt như nước. Nó không đủ sức để khóc, nhưng lại có thể sống ngót một tuần.
Tôi không bị lôi cuốn bởi sự hiếu kì và tôi cũng không có thái độ cư xử trịch thượng đối với họ. Sự thật, tôi không hề nghĩ họ thuộc về đẳng cấp thấp, những nghệ sĩ rong. Họ dường như thấu hiểu và cảm động. Họ quyết định rằng tôi phải ghé thăm họ ở Oshima.
- Chúng ta có thể đón cậu tại nhà ông cụ. - Họ nói to kế hoạch. - Nhà ấy mới đủ rộng và nếu ta chuyển cụ đi nơi khác thì đủ yên tĩnh để cậu ấy học lâu đến chừng nào cậu ấy có thể ở lại.
- Chúng tôi có hai ngôi nhà nhỏ, chúng tôi sẽ dành cho cậu ngôi nhà trên núi. Ngôi nhà thoáng mát và xinh xắn.
Họ cũng quyết định rằng tôi sẽ phụ giúp trong vở kịch họ diễn ở Oshima nhân dịp năm mới.
Tôi dần hiểu ra cuộc sống của cánh nghệ sĩ rong không vất vả như tôi từng tưởng. Không hề có lo âu mà chỉ là thư thái, ngập trong hương vị của cây cỏ và núi đồi. Cả điều này nữa, nhóm nghệ sĩ còn được gắn kết bởi quan hệ tình cảm gia đình gần gũi. Duy chỉ có Yuriko, cô gái làm thuê - có lẽ đã ở vào độ tuổi biết xấu hổ - dường như không thoải mái trước sự hiện diện của tôi.
Đã quá nửa đêm khi tôi rời nhà nghỉ của họ. Ba người trẻ tuổi tiễn tôi ra đến cửa. Cô vũ nữ bé bỏng xoay đôi dép để tôi có thể xỏ thẳng vào mà không cần phải xoay chân. Nàng tựa vào ngưỡng cửa và ngước nhìn lên bầu trời quang đãng.
- Mặt trăng đã lên. Ngày mai chúng ta sẽ ở Shimoda. Em yêu Shimoda. Chúng ta sẽ cầu kinh cho đứa bé, và Mẹ sẽ mua cho em chiếc lược như đã hứa, rồi còn mọi công việc chúng ta có thể làm sau đó. Ông có đưa em đi xem phim không?
Có điều gì đó về Shimoda mà dường như đã khiến nó trở thành mái nhà trong suốt chặng đường các nghệ sĩ rong lang thang bên những suối nước nóng vùng Izu và Sagami.
5
Hành lí được phân chia như cái dạo chúng tôi vượt đèo
Amagi. Chú chó nhỏ, một du khách từng trải, nằm gác chân trước lên cánh
tay của người đàn bà lớn tuổi. Rời Yugano chúng tôi lại đi vào núi.
Chúng tôi nhìn ra biển vào lúc mặt trời ban mai tỏa rạng, sưởi ấm những
thung lũng núi. Nơi cửa sông, một bãi cát trải rộng và trắng xóa.
- Oshima kia kìa.
- Rộng lớn quá, ông chắc chắn sẽ đến chứ, đúng không? - Cô vũ nữ hỏi.
Vì lí do nào đó - tại sự quang đãng của bầu trời thu đã tạo nên hiện tượng ấy? - Mặt biển nơi mặt trời mọc được bao phủ trong làn sương mù tựa dòng suối. Shimoda còn cách chừng mười dặm. Có lúc núi che khuất biển. Chiyoko khẽ cất lên bài hát du dương, trầm bổng.
Con đường rẽ đôi. Một lối hơi dốc nhưng ngắn hơn lối kia một dặm. Tôi sẽ chọn lối nào, con đường dốc ngắn hay con đường dài dễ đi? Tôi chọn đường ngắn.
Con đường ngoằn ngoèo xuyên qua một cánh rừng, dốc đến nỗi khi leo lên như thể ta đang bước thẳng lên một bức tường. Lá rụng tạo nên lớp mùn trơn tuột. Hơi thở trở nên khó nhọc hơn. Tôi cảm nhận được sự liều lĩnh ngang ngạnh, cứ leo lên mỗi lúc một nhanh với bàn tay liên tục ấn lên đầu gối để bước đi. Những người khác rơi lại phía sau; lúc này tôi chỉ có thể nghe được tiếng nói của họ vọng qua rừng cây. Nhưng cô vũ nữ bé bỏng, váy xắn cao, bám theo tôi bằng những bước đi gọn gàng. Nàng luôn giữ khoảng cách hai mét ở phía sau, không cố đến gần hơn và cũng không chịu để bị tụt lại phía sau xa hơn. Thỉnh thoảng, nếu tôi bắt chuyện với nàng thì nàng dừng lại và trả lời với nụ cười mỉm nao lòng. Khi nàng nói, tôi dừng lại, hi vọng nàng sẽ lại gần, nhưng nàng luôn đợi cho đến khi tôi cất bước thì nàng mới đi theo với khoảng cách hai mét phía sau. Con đường trở nên dốc hơn và vòng vèo hơn. Tôi dốc sức bước nhanh hơn và vẫn cách hai mét, nàng nhẹ nhàng và háo hức leo theo. Núi rừng yên tĩnh. Tôi không còn nghe được giọng của ai khác.
- Ông sống nơi nào ở Tokyo?
- Trong kí túc xá. Anh không thực sự sống ở Tokyo.
- Em đã từng đến Tokyo. Em đến đó để múa vào mùa hoa anh đào nở. Nhưng em hãy còn bé lắm. Em không nhớ chút gì về chuyến đi đó. Bố mẹ ông hiện vẫn còn cả chứ? - Nàng lại hỏi. Đoạn: - Ông đã từng đến Kofu chưa? - Nàng nói về những rạp phim ở Shimoda và về đứa bé đã chết.
Chúng tôi lên đến đỉnh núi. Đặt cái trống lên chiếc ghế nằm giữa đám cỏ thu đã chết, nàng lau mặt bằng khăn mùi xoa. Sau đó nàng chú ý đến đôi chân, nhưng rồi nàng thay đổi ý định, cúi xuống phủi bụi bám trên gấu áo kimono của tôi. Tôi nhảy lùi lại vì ngạc nhiên, nàng ngã khuỵu một gối xuống. Khi đi tới đi lui phủi bụi khỏi vạt áo tôi nàng cúi người thấp, rồi nàng đứng dậy thả gấu váy đã được xắn lên để đi bộ. Tôi vẫn đang thở dốc. Nàng mời tôi ngồi xuống.
Một đàn chim nhỏ bay ra từ bên cạnh chiếc ghế dài. Xác lá khô xào xạc khi chúng đậu xuống, bầu không khí tĩnh lặng vô cùng.
- Sao ông đi nhanh thế? - Trông nàng đang nóng bức.
Tôi gõ vào trống, đàn chim hoảng sợ bay vụt lên.
- Anh khát.
- Để em đi xem thử có tìm thấy nước không?
Nhưng nàng quay về từ rặng cây úa vàng, không tìm thấy nước.
- Em định làm gì ở Oshima?
Nàng nhắc tên của hai, ba cô gái chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi, rồi say sưa với cả chuỗi hồi ức. Dường như nàng không nói về Oshima mà về Kofu, về ngôi trường nơi nàng đã học hai năm đầu đời. Nàng hồn nhiên nói khi kí ức về bạn bè sống dậy.
Khoảng mười phút sau, hai người đàn bà trẻ và Eikichi đến, còn người đàn bà lớn tuổi thì phải thêm mười phút nữa. Lúc xuống núi, tôi chủ ý lùi lại nói chuyện với Eikichi. Đi khoảng chừng một trăm mét, cô vũ nữ chạy lại.
- Có dòng suối ở phía dưới. Mọi người đang đợi ông đến uống trước.
Tôi chạy xuống cùng nàng. Nước tinh khiết róc rách chảy dưới bóng những tảng đá. Cánh phụ nữ đang đứng quanh dòng suối.
- Mời cậu uống, - người đàn bà lớn tuổi nói. - Chúng tôi nghĩ chắc cậu sẽ không muốn uống sau khi đàn bà chúng tôi khuấy động dòng nước.
Tôi uống từ hai bàn tay khum lại vốc nước. Cánh phụ nữ còn nán lại. Họ nhúng ướt khăn tay lau mồ hôi trên mặt.
Dưới chân dốc, chúng tôi bước ra đường cao tốc Shimoda. Phía dưới đường, những đám mây khói đây đó tỏa cao từ những lò làm than củi. Chúng tôi dừng lại ngồi nghỉ trên một cây gỗ. Cô vũ nữ dùng cái lược hồng chải bộ lông rối bù của con chó.
- Con sẽ làm gãy răng lược mất, - mẹ cô cảnh báo.
- Cũng chẳng sao. Con sẽ mua một cái mới ở Shimoda.
Đây là chiếc lược nàng cài lên mái tóc, và ngay từ ở Yugano tôi đã dự tính khi đến Shimoda sẽ xin nàng chiếc lược đó. Tôi hơi bối rối khi thấy nàng dùng nó chải lông con chó.
Xa bên lề đường là cả đống trúc. Sau khi lưu ý rằng nếu có gậy chống thì việc đi lại đỡ mệt hơn, Eikichi và tôi đi trước. Chẳng mấy chốc cô vũ nữ chạy kịp chúng tôi. Nàng cầm cây gậy trúc to, dài hơn cả người nàng.
- Cái này để làm gì? - Eikichi hỏi.
Thoáng bối rối, nàng dúi cây gậy trúc cho tôi.
- Để làm gậy chống. Em lấy cây to nhất đấy.
- Em không thể làm như thế. Họ sẽ để ý đến cây lớn nhất. Đưa trả lại đi.
Nàng quay lại đống trúc rồi lập tức chạy lại. Lần này nàng đưa cho tôi cây gậy chỉ lớn bằng ngón tay giữa của tôi. Đoạn, thở hổn hển, nàng nằm vật ra con đường hẹp chạy giữa các thửa ruộng lúa, rồi cứ nằm bất động như thể bị ghim ở đó, trong lúc đợi những phụ nữ khác đến. Eikichi và tôi tiếp tục bước đi trước họ chừng năm, bảy mét.
- Nhưng mọi thứ ông ấy cần làm là thay một cái răng vàng. Rồi thì chị sẽ chẳng còn chú ý đến nữa đâu, - giọng của cô vũ nữ vọng đến.
- Ừ, có lẽ em nên nói điều đó với cậu ấy.
Đấy là giọng của Chiyoko, hoàn toàn không nhận ra tôi đang nhìn họ.
Rõ ràng họ đang bình luận về mấy cái răng vẩu của tôi.
Chiyoko hẳn là người nêu vấn đề ấy ra, còn cô vũ nữ thì gợi ý về chiếc răng vàng. Tôi cảm thấy không hề giận khi bị mang ra bình luận nên chẳng cần chú ý lắng nghe thêm nữa. Cuộc đối thoại lắng lại một lát.
- Ông ấy dễ thương, đúng vậy, - giọng cô vũ nữ lại vang lên.
- Cậu ấy có vẻ rất dễ thương.
- Ông ấy thực sự dễ thương. Cái dễ thương của những người rất dễ thương.
Nàng có cách nói chuyện cởi mở, lối nói thành thật của trẻ con diễn tả chính xác những gì diễn ra trong đầu, lối nói tạo khả năng cho tôi thật sự nghĩ bản thân mình "dễ thương".
Tôi lại nhìn lên núi, rực sáng đến mức làm mắt tôi hơi đau. Phải đến mười chín tuổi tôi mới nghĩ bản thân tôi là kẻ lạc lõng, một kẻ mồ côi từ trong bản chất và nỗi phiền muộn ấy đã xui tôi thu xếp làm chuyến du ngoạn ở Izu này. Bây giờ tôi có thể nghĩ về bản thân như một người "dễ thương" theo cách diễn đạt bình thường. Tôi không tìm ra từ ngữ để diễn tả điều đó có ý nghĩa như thế nào với tôi. Những ngọn núi rực sáng hơn. Chúng tôi gần đến Shimoda và biển. Tôi vung vẩy cây gậy lên đầu đảm cỏ mùa thu. Thỉnh thoảng, khi con đường chạy qua một ngôi làng, chúng tôi có thể nhìn thấy tấm bảng: "Cấm kẻ ăn mày, biểu diễn rong".
- Oshima kia kìa.
- Rộng lớn quá, ông chắc chắn sẽ đến chứ, đúng không? - Cô vũ nữ hỏi.
Vì lí do nào đó - tại sự quang đãng của bầu trời thu đã tạo nên hiện tượng ấy? - Mặt biển nơi mặt trời mọc được bao phủ trong làn sương mù tựa dòng suối. Shimoda còn cách chừng mười dặm. Có lúc núi che khuất biển. Chiyoko khẽ cất lên bài hát du dương, trầm bổng.
Con đường rẽ đôi. Một lối hơi dốc nhưng ngắn hơn lối kia một dặm. Tôi sẽ chọn lối nào, con đường dốc ngắn hay con đường dài dễ đi? Tôi chọn đường ngắn.
Con đường ngoằn ngoèo xuyên qua một cánh rừng, dốc đến nỗi khi leo lên như thể ta đang bước thẳng lên một bức tường. Lá rụng tạo nên lớp mùn trơn tuột. Hơi thở trở nên khó nhọc hơn. Tôi cảm nhận được sự liều lĩnh ngang ngạnh, cứ leo lên mỗi lúc một nhanh với bàn tay liên tục ấn lên đầu gối để bước đi. Những người khác rơi lại phía sau; lúc này tôi chỉ có thể nghe được tiếng nói của họ vọng qua rừng cây. Nhưng cô vũ nữ bé bỏng, váy xắn cao, bám theo tôi bằng những bước đi gọn gàng. Nàng luôn giữ khoảng cách hai mét ở phía sau, không cố đến gần hơn và cũng không chịu để bị tụt lại phía sau xa hơn. Thỉnh thoảng, nếu tôi bắt chuyện với nàng thì nàng dừng lại và trả lời với nụ cười mỉm nao lòng. Khi nàng nói, tôi dừng lại, hi vọng nàng sẽ lại gần, nhưng nàng luôn đợi cho đến khi tôi cất bước thì nàng mới đi theo với khoảng cách hai mét phía sau. Con đường trở nên dốc hơn và vòng vèo hơn. Tôi dốc sức bước nhanh hơn và vẫn cách hai mét, nàng nhẹ nhàng và háo hức leo theo. Núi rừng yên tĩnh. Tôi không còn nghe được giọng của ai khác.
- Ông sống nơi nào ở Tokyo?
- Trong kí túc xá. Anh không thực sự sống ở Tokyo.
- Em đã từng đến Tokyo. Em đến đó để múa vào mùa hoa anh đào nở. Nhưng em hãy còn bé lắm. Em không nhớ chút gì về chuyến đi đó. Bố mẹ ông hiện vẫn còn cả chứ? - Nàng lại hỏi. Đoạn: - Ông đã từng đến Kofu chưa? - Nàng nói về những rạp phim ở Shimoda và về đứa bé đã chết.
Chúng tôi lên đến đỉnh núi. Đặt cái trống lên chiếc ghế nằm giữa đám cỏ thu đã chết, nàng lau mặt bằng khăn mùi xoa. Sau đó nàng chú ý đến đôi chân, nhưng rồi nàng thay đổi ý định, cúi xuống phủi bụi bám trên gấu áo kimono của tôi. Tôi nhảy lùi lại vì ngạc nhiên, nàng ngã khuỵu một gối xuống. Khi đi tới đi lui phủi bụi khỏi vạt áo tôi nàng cúi người thấp, rồi nàng đứng dậy thả gấu váy đã được xắn lên để đi bộ. Tôi vẫn đang thở dốc. Nàng mời tôi ngồi xuống.
Một đàn chim nhỏ bay ra từ bên cạnh chiếc ghế dài. Xác lá khô xào xạc khi chúng đậu xuống, bầu không khí tĩnh lặng vô cùng.
- Sao ông đi nhanh thế? - Trông nàng đang nóng bức.
Tôi gõ vào trống, đàn chim hoảng sợ bay vụt lên.
- Anh khát.
- Để em đi xem thử có tìm thấy nước không?
Nhưng nàng quay về từ rặng cây úa vàng, không tìm thấy nước.
- Em định làm gì ở Oshima?
Nàng nhắc tên của hai, ba cô gái chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi, rồi say sưa với cả chuỗi hồi ức. Dường như nàng không nói về Oshima mà về Kofu, về ngôi trường nơi nàng đã học hai năm đầu đời. Nàng hồn nhiên nói khi kí ức về bạn bè sống dậy.
Khoảng mười phút sau, hai người đàn bà trẻ và Eikichi đến, còn người đàn bà lớn tuổi thì phải thêm mười phút nữa. Lúc xuống núi, tôi chủ ý lùi lại nói chuyện với Eikichi. Đi khoảng chừng một trăm mét, cô vũ nữ chạy lại.
- Có dòng suối ở phía dưới. Mọi người đang đợi ông đến uống trước.
Tôi chạy xuống cùng nàng. Nước tinh khiết róc rách chảy dưới bóng những tảng đá. Cánh phụ nữ đang đứng quanh dòng suối.
- Mời cậu uống, - người đàn bà lớn tuổi nói. - Chúng tôi nghĩ chắc cậu sẽ không muốn uống sau khi đàn bà chúng tôi khuấy động dòng nước.
Tôi uống từ hai bàn tay khum lại vốc nước. Cánh phụ nữ còn nán lại. Họ nhúng ướt khăn tay lau mồ hôi trên mặt.
Dưới chân dốc, chúng tôi bước ra đường cao tốc Shimoda. Phía dưới đường, những đám mây khói đây đó tỏa cao từ những lò làm than củi. Chúng tôi dừng lại ngồi nghỉ trên một cây gỗ. Cô vũ nữ dùng cái lược hồng chải bộ lông rối bù của con chó.
- Con sẽ làm gãy răng lược mất, - mẹ cô cảnh báo.
- Cũng chẳng sao. Con sẽ mua một cái mới ở Shimoda.
Đây là chiếc lược nàng cài lên mái tóc, và ngay từ ở Yugano tôi đã dự tính khi đến Shimoda sẽ xin nàng chiếc lược đó. Tôi hơi bối rối khi thấy nàng dùng nó chải lông con chó.
Xa bên lề đường là cả đống trúc. Sau khi lưu ý rằng nếu có gậy chống thì việc đi lại đỡ mệt hơn, Eikichi và tôi đi trước. Chẳng mấy chốc cô vũ nữ chạy kịp chúng tôi. Nàng cầm cây gậy trúc to, dài hơn cả người nàng.
- Cái này để làm gì? - Eikichi hỏi.
Thoáng bối rối, nàng dúi cây gậy trúc cho tôi.
- Để làm gậy chống. Em lấy cây to nhất đấy.
- Em không thể làm như thế. Họ sẽ để ý đến cây lớn nhất. Đưa trả lại đi.
Nàng quay lại đống trúc rồi lập tức chạy lại. Lần này nàng đưa cho tôi cây gậy chỉ lớn bằng ngón tay giữa của tôi. Đoạn, thở hổn hển, nàng nằm vật ra con đường hẹp chạy giữa các thửa ruộng lúa, rồi cứ nằm bất động như thể bị ghim ở đó, trong lúc đợi những phụ nữ khác đến. Eikichi và tôi tiếp tục bước đi trước họ chừng năm, bảy mét.
- Nhưng mọi thứ ông ấy cần làm là thay một cái răng vàng. Rồi thì chị sẽ chẳng còn chú ý đến nữa đâu, - giọng của cô vũ nữ vọng đến.
- Ừ, có lẽ em nên nói điều đó với cậu ấy.
Đấy là giọng của Chiyoko, hoàn toàn không nhận ra tôi đang nhìn họ.
Rõ ràng họ đang bình luận về mấy cái răng vẩu của tôi.
Chiyoko hẳn là người nêu vấn đề ấy ra, còn cô vũ nữ thì gợi ý về chiếc răng vàng. Tôi cảm thấy không hề giận khi bị mang ra bình luận nên chẳng cần chú ý lắng nghe thêm nữa. Cuộc đối thoại lắng lại một lát.
- Ông ấy dễ thương, đúng vậy, - giọng cô vũ nữ lại vang lên.
- Cậu ấy có vẻ rất dễ thương.
- Ông ấy thực sự dễ thương. Cái dễ thương của những người rất dễ thương.
Nàng có cách nói chuyện cởi mở, lối nói thành thật của trẻ con diễn tả chính xác những gì diễn ra trong đầu, lối nói tạo khả năng cho tôi thật sự nghĩ bản thân mình "dễ thương".
Tôi lại nhìn lên núi, rực sáng đến mức làm mắt tôi hơi đau. Phải đến mười chín tuổi tôi mới nghĩ bản thân tôi là kẻ lạc lõng, một kẻ mồ côi từ trong bản chất và nỗi phiền muộn ấy đã xui tôi thu xếp làm chuyến du ngoạn ở Izu này. Bây giờ tôi có thể nghĩ về bản thân như một người "dễ thương" theo cách diễn đạt bình thường. Tôi không tìm ra từ ngữ để diễn tả điều đó có ý nghĩa như thế nào với tôi. Những ngọn núi rực sáng hơn. Chúng tôi gần đến Shimoda và biển. Tôi vung vẩy cây gậy lên đầu đảm cỏ mùa thu. Thỉnh thoảng, khi con đường chạy qua một ngôi làng, chúng tôi có thể nhìn thấy tấm bảng: "Cấm kẻ ăn mày, biểu diễn rong".
6
Nhà nghỉ Koshu tồi tàn nằm ở ngoại ô phía Bắc Shimoda.
Tôi đi theo đoàn lên căn phòng tựa như phòng áp mái ở tầng hai. Không có
trần nhà, mái nhà xuôi đứng xuống đến nỗi muốn ngồi bên cửa sổ nhìn ra
đường thì ta không thể thoải mái thẳng lưng lên.
Người đàn bà lớn tuổi đang chăm sóc cô vũ nữ.
- Vai con không tê cứng chứ? Cánh tay con có còn đau nữa không?
Cô vũ nữ phác những động tác đánh trống duyên dáng.
- Thưa mẹ không. Con không hề gì cả đâu. Chúng chẳng đau tí gì cả.
- Tốt. Mẹ cứ lo.
Tôi nhấc cái trống.
- Nặng quá.
- Nó nặng hơn ông tưởng, - nàng cười vang. - Nó nặng hơn cả túi hành lý của ông.
Họ chào hỏi những khách trọ khác. Nhà nghỉ đầy ắp những người bán hàng rong và biểu diễn rong. Shimoda dường như là mái nhà cho những kiểu người chuyên di trú này. Cô vũ nữ cho đứa bé vừa chạy đến mấy xu. Khi tôi chuẩn bị đi, nàng chạy lại xoay mũi guốc cho tôi.
- Ông nhớ đưa em đi xem phim, nhớ nhé? - nàng thì thào, như thể chỉ nói cho riêng mình.
Eikichi và tôi, được chỉ dẫn bởi một gã trông không có vẻ lương thiện ở Koshu, đi đến nhà nghỉ, nghe nói trước đây là của viên thị trưởng cũ. Chúng tôi cùng đi tắm và ăn trưa, cá vừa mới bắt từ biển tươi rói.
Tôi đưa cho anh ta ít tiền khi anh ta ra về.
- Mua hộ bó hoa cho buổi cúng giỗ ngày mai, - tôi nói. Tôi giải thích rằng tôi sẽ phải quay về Tokyo bằng chuyến tàu thủy sáng mai. Thực tế là tôi đã hết tiền nhưng tôi nói với họ là tôi phải đến trường.
Tôi ăn tối qua quýt sau bữa trưa ba tiếng rồi qua cầu đi đến phía Bắc thành phố. Tôi leo lên ngọn Shimoda Fuji, nhìn xuống cảng. Trên đường quay về, tôi tạt vào nhà nghỉ Koshu. Những người biểu diễn rong đang ăn món gà hầm.
- Mời cậu nếm thử. Cánh đàn bà chúng tôi đã đụng đũa vào rồi, nhưng ngày nào đó biết đâu được cậu sẽ gặp may nhờ nó. - Người đàn bà lớn tuổi lấy từ chiếc hòm mây ra một cái chén, một đôi đũa và bảo Yuriko đi rửa.
Họ nài nỉ tôi ở lại thêm một ngày nữa và dự đám giỗ cùng họ, nhưng tôi một mực từ chối vì lý do bận học.
- Thôi được, dẫu sao thì chúng tôi cũng sẽ đón cậu vào mùa đông, - người đàn bà lớn tuổi lại nói. - Tất cả chúng tôi sẽ xuống bến tàu đón cậu. Cậu phải cho chúng tôi biết khi nào cậu đến.
Bây giờ, cậu hãy ở lại cùng chúng tôi. Chúng tôi không đồng ý để cậu đến ở khách sạn. Chúng tôi sẽ chờ cậu và tất cả mọi người sẽ đi đón cậu.
Khi những người khác rời khỏi phòng, tôi mời Chiyoko và Yuriko đi xem phim cùng tôi. Nhợt nhạt và mỏi mệt, Chiyoko nằm yên, tay để lên bụng.
- Tôi không thể đi được, cảm ơn cậu. Tôi không chịu nổi khi phải đi bộ nhiều đến thế.
Yuriko nhìn chăm chăm xuống sàn nhà.
Cô vũ nữ bé bỏng xuống tầng dưới chơi đùa với bọn trẻ trong nhà nghỉ. Khi nhìn thấy tôi, nàng chạy đến nịnh người đàn bà lớn tuổi để xin phép đi xem phim. Nàng quay lại với vẻ thất bại và chán nản.
- Tôi chẳng thấy có gì sai quấy cả, - Eikichi bàn. - Sao không để nó đi xem một mình với cậu ấy?
Tôi cũng thấy điều đó thực khó hiểu, nhưng người đàn bà vẫn cương quyết. Cô vũ nữ ở ngoài hành lang chơi đùa với con chó khi tôi bước ra. Tôi không thể buộc mình nói chuyện với nàng, vậy nên sự lạnh lùng là yêu cầu của nghi lễ mới này và nàng cũng đã không có đủ sức mạnh để ngước nhìn lên.
Tôi đi xem phim một mình. Một phụ nữ đọc lời đối thoại bên ngọn đèn nhỏ. Tôi cảm thấy chán ngấy rồi quay về nhà nghỉ. Suốt thời gian dài, tôi ngồi chống cùi tay lên cửa sổ nhìn ra ngoài. Thành phố tối om. Tôi nghĩ tôi nghe được tiếng trống từ xa vẳng lại. Chẳng vì lí do chính đáng nào cả nhưng tôi thấy tôi đang khóc.
Người đàn bà lớn tuổi đang chăm sóc cô vũ nữ.
- Vai con không tê cứng chứ? Cánh tay con có còn đau nữa không?
Cô vũ nữ phác những động tác đánh trống duyên dáng.
- Thưa mẹ không. Con không hề gì cả đâu. Chúng chẳng đau tí gì cả.
- Tốt. Mẹ cứ lo.
Tôi nhấc cái trống.
- Nặng quá.
- Nó nặng hơn ông tưởng, - nàng cười vang. - Nó nặng hơn cả túi hành lý của ông.
Họ chào hỏi những khách trọ khác. Nhà nghỉ đầy ắp những người bán hàng rong và biểu diễn rong. Shimoda dường như là mái nhà cho những kiểu người chuyên di trú này. Cô vũ nữ cho đứa bé vừa chạy đến mấy xu. Khi tôi chuẩn bị đi, nàng chạy lại xoay mũi guốc cho tôi.
- Ông nhớ đưa em đi xem phim, nhớ nhé? - nàng thì thào, như thể chỉ nói cho riêng mình.
Eikichi và tôi, được chỉ dẫn bởi một gã trông không có vẻ lương thiện ở Koshu, đi đến nhà nghỉ, nghe nói trước đây là của viên thị trưởng cũ. Chúng tôi cùng đi tắm và ăn trưa, cá vừa mới bắt từ biển tươi rói.
Tôi đưa cho anh ta ít tiền khi anh ta ra về.
- Mua hộ bó hoa cho buổi cúng giỗ ngày mai, - tôi nói. Tôi giải thích rằng tôi sẽ phải quay về Tokyo bằng chuyến tàu thủy sáng mai. Thực tế là tôi đã hết tiền nhưng tôi nói với họ là tôi phải đến trường.
Tôi ăn tối qua quýt sau bữa trưa ba tiếng rồi qua cầu đi đến phía Bắc thành phố. Tôi leo lên ngọn Shimoda Fuji, nhìn xuống cảng. Trên đường quay về, tôi tạt vào nhà nghỉ Koshu. Những người biểu diễn rong đang ăn món gà hầm.
- Mời cậu nếm thử. Cánh đàn bà chúng tôi đã đụng đũa vào rồi, nhưng ngày nào đó biết đâu được cậu sẽ gặp may nhờ nó. - Người đàn bà lớn tuổi lấy từ chiếc hòm mây ra một cái chén, một đôi đũa và bảo Yuriko đi rửa.
Họ nài nỉ tôi ở lại thêm một ngày nữa và dự đám giỗ cùng họ, nhưng tôi một mực từ chối vì lý do bận học.
- Thôi được, dẫu sao thì chúng tôi cũng sẽ đón cậu vào mùa đông, - người đàn bà lớn tuổi lại nói. - Tất cả chúng tôi sẽ xuống bến tàu đón cậu. Cậu phải cho chúng tôi biết khi nào cậu đến.
Bây giờ, cậu hãy ở lại cùng chúng tôi. Chúng tôi không đồng ý để cậu đến ở khách sạn. Chúng tôi sẽ chờ cậu và tất cả mọi người sẽ đi đón cậu.
Khi những người khác rời khỏi phòng, tôi mời Chiyoko và Yuriko đi xem phim cùng tôi. Nhợt nhạt và mỏi mệt, Chiyoko nằm yên, tay để lên bụng.
- Tôi không thể đi được, cảm ơn cậu. Tôi không chịu nổi khi phải đi bộ nhiều đến thế.
Yuriko nhìn chăm chăm xuống sàn nhà.
Cô vũ nữ bé bỏng xuống tầng dưới chơi đùa với bọn trẻ trong nhà nghỉ. Khi nhìn thấy tôi, nàng chạy đến nịnh người đàn bà lớn tuổi để xin phép đi xem phim. Nàng quay lại với vẻ thất bại và chán nản.
- Tôi chẳng thấy có gì sai quấy cả, - Eikichi bàn. - Sao không để nó đi xem một mình với cậu ấy?
Tôi cũng thấy điều đó thực khó hiểu, nhưng người đàn bà vẫn cương quyết. Cô vũ nữ ở ngoài hành lang chơi đùa với con chó khi tôi bước ra. Tôi không thể buộc mình nói chuyện với nàng, vậy nên sự lạnh lùng là yêu cầu của nghi lễ mới này và nàng cũng đã không có đủ sức mạnh để ngước nhìn lên.
Tôi đi xem phim một mình. Một phụ nữ đọc lời đối thoại bên ngọn đèn nhỏ. Tôi cảm thấy chán ngấy rồi quay về nhà nghỉ. Suốt thời gian dài, tôi ngồi chống cùi tay lên cửa sổ nhìn ra ngoài. Thành phố tối om. Tôi nghĩ tôi nghe được tiếng trống từ xa vẳng lại. Chẳng vì lí do chính đáng nào cả nhưng tôi thấy tôi đang khóc.
7
Eikichi từ dưới đường gọi với lên khi tôi đang ăn
sáng vào lúc bảy giờ sáng hôm sau. Anh ta mặc bộ khuông sang trọng,
dường như là vì quý trọng tôi. Cánh phụ nữ không đi cùng anh ta. Bỗng
nhiên tôi thấy mình cô độc.
- Mọi người đều muốn đến tiễn cậu, - anh ta giải thích khi lên phòng tôi, - nhưng tối qua chúng tôi ra ngoài quá khuya, nên họ không thể thức dậy sớm được. Họ nhờ chuyển lời xin lỗi đến cậu và họ sẽ đợi cậu vào mùa đông này.
Gió thu thổi hơi lạnh qua thành phố. Trên đường đến tàu, anh ta mua cho tôi hoa quả, thuốc lá và một gói kẹo bạc hà hiệu "Kaoru".
- Bởi vì đây là tên con bé, - anh ta mỉm cười. - Cam thì không tốt khi đi tàu thủy, nhưng cậu có thể ăn hồng. Chúng sẽ trợ giúp nếu cậu hơi bị say sóng.
- Sao tôi không tặng anh cái này nhỉ?
Tôi đội chiếc mũ săn lên đầu anh ta, rồi lôi chiếc mũ sinh viên ra khỏi túi, cố vuốt phẳng nếp nhăn. Cả hai chúng tôi cùng cười.
Khi chúng tôi đến bến tàu, tim tôi đập mạnh khi nhìn thấy cô vũ nữ bé bỏng đang ngồi bên mép nước. Nàng không cử động khi chúng tôi đến, duy chỉ gật đầu chào im lặng. Trên mặt nàng vẫn còn vết phấn trang điểm khiến tôi thấy nàng thật duyên dáng.
Vết phấn hơi đỏ gắt nơi khóe mắt tôn thêm vẻ thanh tao tươi trẻ của nàng.
- Những người kia sắp đến à? - Eikichi hỏi.
Nàng lắc đầu.
- Họ vẫn ngủ?
Nàng gật đầu.
Eikichi đi mua vé tàu và vé tiễn. Tôi cố bắt chuyện nhưng nàng chỉ hướng cái nhìn vào chỗ con kênh chảy ra cảng. Thỉnh thoảng nàng khẽ gật đầu nhanh, luôn trước khi tôi dứt lời.
- Tôi cho là chúng ta có thể hỏi chàng trai này. - Người đàn ông trông có vẻ là người làm công nhật đi đến chỗ tôi. - Cậu đến Tokyo à? Tôi trông thấy cậu và nghĩ mình nên thử hỏi xem. Cậu có thể đưa giúp bà cụ này đến Tokyo được chứ? Bà gặp cảnh ngộ thật đau buồn. Con trai bà làm tại mỏ bạc ở Rendaiji nhưng vì anh đã mắc bệnh cúm đang hoành hành nơi đó nên cả hai vợ chồng đều bị chết vì cúm. Một tay bà cụ phải lo cho ba đứa bé. Chúng tôi chẳng nghĩ ra được cách nào để giúp đỡ cụ. Vậy nên chúng tôi gởi cụ về quê quê cụ ở Mito. Cụ chẳng biết tí gì về Tokyo. Có lẽ khi đến bến cảng ở Reiganjima, cậu có thể giúp bà cụ lên tuyến xe điện để đến ga Ueno được chứ? Tôi biết việc này thật phiền toái nhưng hãy làm ơn giúp cụ. Xin hãy làm ơn. Chỉ trông chừng bà cụ thôi. Cậu đã thấy là tình cảnh cụ thê thảm quá rồi đó?
Bà cụ đang đứng lặng câm, một đứa bé địu sau lưng, một tay dắt bé gái hai tuổi và tay kia dắt bé gái bốn tuổi. Tôi có thể nhìn thấy bữa ăn nghèo nàn qua chỗ hở của cái tay nải. Năm sáu thợ mỏ đang cố động viên cụ. Tôi vui vẻ nói tôi sẽ cố hết sức để giúp cụ.
- Nếu có thể, xin cậu cố giúp.
Cảm ơn cậu. Lẽ ra chính chúng tôi phải đưa cụ đến Mito, nhưng chúng tôi không thể.
Họ lần lượt cảm ơn tôi.
Tàu tròng trành mạnh. Cô vũ nữ nhìn bất động về phía trước, môi nàng mím chặt. Khi bắt đầu leo lên thang dây để lên tàu, tôi ngoái nhìn lại. Tôi có thể thấy nàng muốn nói lời tạm biệt, nhưng nàng chỉ lặng lẽ gật đầu. Tàu bắt đầu lùi lại. Eikichi vẫy vẫy chiếc mũ săn và khi tàu đã lùi được một khoảng xa, nàng bắt đầu vẫy cái gì đó màu trắng.
Tôi tựa vào lan can tàu và cứ nhìn mãi về phía Oshima cho đến khi mỏm đất phía Nam bán đảo Izu chìm khuất khỏi tầm mắt.
Như thể tôi đã nói lời tạm biệt với cô vũ nữ từ lâu lắm rồi. Tôi nhìn vào buồng riêng để xem thử cụ già thế nào, nhưng cụ đã được những người tốt bụng thăm hỏi. Tôi đến buồng riêng bên cạnh.
Biển dậy sóng mạnh đến nỗi ngay cả ngồi cũng khó. Một thủy thủ đoàn đi phát những chiếc chậu kim loại nhỏ. Tôi nằm gối đầu lên túi sách, đầu óc tôi trống rỗng, nhẹ tênh. Tôi không còn ý thức về thời gian trôi qua. Tôi khóc lặng lẽ và khi má tôi bắt đầu thấy lạnh, tôi lật ngược chiếc túi. Một cậu bé nằm bên tôi. Cậu ta là con của một ông chủ nhà máy ở Izu, cậu ta nói, cậu ta đến Tokyo để chuẩn bị dự thi vào trường trung học. Cái mũ sinh viên của tôi đã hấp dẫn cậu ấy.
- Anh có chuyện buồn à? - Cậu ta hỏi sau một lúc.
- Không, anh chỉ vừa mới tạm biệt một người.
Tôi thấy không cần phải giấu giếm sự thật và tôi hoàn toàn không hề xấu hổ vì những giọt nước mắt. Tôi chẳng nghĩ ngợi gì cả.
Tâm trạng tôi như thể đang thiu thiu ngủ trong sự thanh thản tuyệt đối. Tôi không biết chiều đến lúc nào nhưng có ánh đèn khi chúng tôi đi qua Atami. Tôi đói và hơi lạnh. Cậu bé mở đồ ăn tối ra và tôi ăn như thể đây là bữa tối của mình. Rồi tôi ủ mình dưới một phần tấm áo choàng của cậu ta. Tôi bềnh bồng trong trạng thái trống rỗng kì diệu. Dường như việc tôi dựa vào lòng tốt của cậu bé là tự nhiên. Và dường như cũng hoàn toàn tự nhiên khi tôi nhận đưa bà cụ đến Ueno vào sáng sớm nay và mua cho cụ chiếc vé đến Mito. Mọi việc chìm trong sự hài hòa đan quyện. Đèn tắt, mùi biển và mùi cá trong khoang nồng hơn. Trong bóng tối, được sưởi ấm bởi cậu bé nằm bên cạnh, tôi thỏa thuê khóc. Như thể đầu tôi đã hòa thành dòng nước tinh khiết. Nó đang thanh thản rời đi, từng giọt một. Chẳng mấy chốc, sẽ chẳng còn lại gì nữa.
- Mọi người đều muốn đến tiễn cậu, - anh ta giải thích khi lên phòng tôi, - nhưng tối qua chúng tôi ra ngoài quá khuya, nên họ không thể thức dậy sớm được. Họ nhờ chuyển lời xin lỗi đến cậu và họ sẽ đợi cậu vào mùa đông này.
Gió thu thổi hơi lạnh qua thành phố. Trên đường đến tàu, anh ta mua cho tôi hoa quả, thuốc lá và một gói kẹo bạc hà hiệu "Kaoru".
- Bởi vì đây là tên con bé, - anh ta mỉm cười. - Cam thì không tốt khi đi tàu thủy, nhưng cậu có thể ăn hồng. Chúng sẽ trợ giúp nếu cậu hơi bị say sóng.
- Sao tôi không tặng anh cái này nhỉ?
Tôi đội chiếc mũ săn lên đầu anh ta, rồi lôi chiếc mũ sinh viên ra khỏi túi, cố vuốt phẳng nếp nhăn. Cả hai chúng tôi cùng cười.
Khi chúng tôi đến bến tàu, tim tôi đập mạnh khi nhìn thấy cô vũ nữ bé bỏng đang ngồi bên mép nước. Nàng không cử động khi chúng tôi đến, duy chỉ gật đầu chào im lặng. Trên mặt nàng vẫn còn vết phấn trang điểm khiến tôi thấy nàng thật duyên dáng.
Vết phấn hơi đỏ gắt nơi khóe mắt tôn thêm vẻ thanh tao tươi trẻ của nàng.
- Những người kia sắp đến à? - Eikichi hỏi.
Nàng lắc đầu.
- Họ vẫn ngủ?
Nàng gật đầu.
Eikichi đi mua vé tàu và vé tiễn. Tôi cố bắt chuyện nhưng nàng chỉ hướng cái nhìn vào chỗ con kênh chảy ra cảng. Thỉnh thoảng nàng khẽ gật đầu nhanh, luôn trước khi tôi dứt lời.
- Tôi cho là chúng ta có thể hỏi chàng trai này. - Người đàn ông trông có vẻ là người làm công nhật đi đến chỗ tôi. - Cậu đến Tokyo à? Tôi trông thấy cậu và nghĩ mình nên thử hỏi xem. Cậu có thể đưa giúp bà cụ này đến Tokyo được chứ? Bà gặp cảnh ngộ thật đau buồn. Con trai bà làm tại mỏ bạc ở Rendaiji nhưng vì anh đã mắc bệnh cúm đang hoành hành nơi đó nên cả hai vợ chồng đều bị chết vì cúm. Một tay bà cụ phải lo cho ba đứa bé. Chúng tôi chẳng nghĩ ra được cách nào để giúp đỡ cụ. Vậy nên chúng tôi gởi cụ về quê quê cụ ở Mito. Cụ chẳng biết tí gì về Tokyo. Có lẽ khi đến bến cảng ở Reiganjima, cậu có thể giúp bà cụ lên tuyến xe điện để đến ga Ueno được chứ? Tôi biết việc này thật phiền toái nhưng hãy làm ơn giúp cụ. Xin hãy làm ơn. Chỉ trông chừng bà cụ thôi. Cậu đã thấy là tình cảnh cụ thê thảm quá rồi đó?
Bà cụ đang đứng lặng câm, một đứa bé địu sau lưng, một tay dắt bé gái hai tuổi và tay kia dắt bé gái bốn tuổi. Tôi có thể nhìn thấy bữa ăn nghèo nàn qua chỗ hở của cái tay nải. Năm sáu thợ mỏ đang cố động viên cụ. Tôi vui vẻ nói tôi sẽ cố hết sức để giúp cụ.
- Nếu có thể, xin cậu cố giúp.
Cảm ơn cậu. Lẽ ra chính chúng tôi phải đưa cụ đến Mito, nhưng chúng tôi không thể.
Họ lần lượt cảm ơn tôi.
Tàu tròng trành mạnh. Cô vũ nữ nhìn bất động về phía trước, môi nàng mím chặt. Khi bắt đầu leo lên thang dây để lên tàu, tôi ngoái nhìn lại. Tôi có thể thấy nàng muốn nói lời tạm biệt, nhưng nàng chỉ lặng lẽ gật đầu. Tàu bắt đầu lùi lại. Eikichi vẫy vẫy chiếc mũ săn và khi tàu đã lùi được một khoảng xa, nàng bắt đầu vẫy cái gì đó màu trắng.
Tôi tựa vào lan can tàu và cứ nhìn mãi về phía Oshima cho đến khi mỏm đất phía Nam bán đảo Izu chìm khuất khỏi tầm mắt.
Như thể tôi đã nói lời tạm biệt với cô vũ nữ từ lâu lắm rồi. Tôi nhìn vào buồng riêng để xem thử cụ già thế nào, nhưng cụ đã được những người tốt bụng thăm hỏi. Tôi đến buồng riêng bên cạnh.
Biển dậy sóng mạnh đến nỗi ngay cả ngồi cũng khó. Một thủy thủ đoàn đi phát những chiếc chậu kim loại nhỏ. Tôi nằm gối đầu lên túi sách, đầu óc tôi trống rỗng, nhẹ tênh. Tôi không còn ý thức về thời gian trôi qua. Tôi khóc lặng lẽ và khi má tôi bắt đầu thấy lạnh, tôi lật ngược chiếc túi. Một cậu bé nằm bên tôi. Cậu ta là con của một ông chủ nhà máy ở Izu, cậu ta nói, cậu ta đến Tokyo để chuẩn bị dự thi vào trường trung học. Cái mũ sinh viên của tôi đã hấp dẫn cậu ấy.
- Anh có chuyện buồn à? - Cậu ta hỏi sau một lúc.
- Không, anh chỉ vừa mới tạm biệt một người.
Tôi thấy không cần phải giấu giếm sự thật và tôi hoàn toàn không hề xấu hổ vì những giọt nước mắt. Tôi chẳng nghĩ ngợi gì cả.
Tâm trạng tôi như thể đang thiu thiu ngủ trong sự thanh thản tuyệt đối. Tôi không biết chiều đến lúc nào nhưng có ánh đèn khi chúng tôi đi qua Atami. Tôi đói và hơi lạnh. Cậu bé mở đồ ăn tối ra và tôi ăn như thể đây là bữa tối của mình. Rồi tôi ủ mình dưới một phần tấm áo choàng của cậu ta. Tôi bềnh bồng trong trạng thái trống rỗng kì diệu. Dường như việc tôi dựa vào lòng tốt của cậu bé là tự nhiên. Và dường như cũng hoàn toàn tự nhiên khi tôi nhận đưa bà cụ đến Ueno vào sáng sớm nay và mua cho cụ chiếc vé đến Mito. Mọi việc chìm trong sự hài hòa đan quyện. Đèn tắt, mùi biển và mùi cá trong khoang nồng hơn. Trong bóng tối, được sưởi ấm bởi cậu bé nằm bên cạnh, tôi thỏa thuê khóc. Như thể đầu tôi đã hòa thành dòng nước tinh khiết. Nó đang thanh thản rời đi, từng giọt một. Chẳng mấy chốc, sẽ chẳng còn lại gì nữa.
(1925)
người dịch : Lê Huy Bắc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét