MARQUEZ và HEMINGWAY
Chân
dung một con người vĩ đại sẽ càng nổi bật khi ta tìm hiểu quan hệ của
người đó với những người vĩ đại khác. Gabriel Garcia Marquez (Colombia,
6.3.1927 – 17.4.2014) và Ernest Hemingway (Hoa Kỳ, 21.6.1899 – 2.6.1961)
là hai nhà văn lớn bậc nhất của châu Mỹ ở thế kỷ XX. Hai ông vừa có
nhiều nét tương đồng, vừa có những nét rất khác biệt. Nhân sự kiện
Gabriel Garcia Marquez vừa qua đời, chúng tôi xin giới thiệu đôi nét về
mối liên hệ giữa hai con người vĩ đại này.
Cả G. Marquez và E. Hemingway đều
thành công vang dội trong Văn Học và kinh doanh. Cả hai đều sớm nổi
tiếng và đều bắt đầu từ nghề báo. Cả hai đều đi khắp châu Âu khi còn làm
báo, và đều có những truyện ngắn và bài viết về Paris, Barcelona,
Madrid, Havana, Mexico City. Cả hai đều yêu Tây Ban Nha và Cuba, có
thiện cảm với cách mạng Cuba do anh em Castro lãnh đạo. Cả hai đều nhận
giải Nobel ở tuổi 55. Cả hai đều là đại diện tiêu biểu của nền Văn Học
đã sinh ra mình. Và cũng chính vì vậy, phong cách sáng tác của họ rất
khác nhau, bởi hai nền Văn Học mà họ đại diện cũng rất khác nhau.
Hemingway Đại diện cho nền Văn Học của cá nhân. Ông đi sâu vào cá tính,
sự đơn độc, cách biệt,… Văn của G. Marquez mô tả con người trong một xã
hội Mỹ Latin sôi động với những dòng chảy tập thể, những ước mơ chung,
tình cảm chung, bất hạnh chung và thắng lợi chung.
Tuy nhiên, chính G. Marquez từng
thừa nhận rằng trong thời gian đầu phong cách viết truyện ngắn của ông
đã chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ E. Hemingway. Các nhà phê bình Jacques
Gilard và George R. McMurray còn khẳng định “Relato de un Naufrago”
(Chuyện về một thủy thủ bị hất khỏi tàu) của G. Marquez ít nhất là được
tạo cảm hứng từ “The old man and the Sea” (Ông già và biển cả) của E.
Hemingway. Chúng ta hãy nói qua về “Relato de un Naufrago”.
Năm 1955, G. Marquez gửi đăng
trên 14 số liên tiếp của báo El Expectador ở Bogota câu chuyện về Luis
Alejandro Velasco, một thủy thủ trên tàu khu trục Caldas của Colombia.
Tác phẩm có cái tên đầy đủ rất dài: “Câu chuyện về một thủy thủy bị hất
khỏi tàu, sau đó bị trôi dạt 10 ngày không đồ ăn, nước uống, được phong
là anh hùng dân tộc, được các hoa hậu ôm hôn, trở nên giàu có nhờ công
chúng, sau đó bị chính phủ hắt hủi và bị quên vĩnh viễn”. Diễn biến câu
chuyện như sau.
Tháng 2 năm 1955, sau nhiều tháng
sửa chữa trên đất Hoa Kỳ, tàu khu trục Caldas quay trở về Colombia. Khi
tàu về đến nơi thì người ta thấy bị thiếu 8 thủy thủ, trong đó có
Velasco. Những người còn lại trên tàu kể rằng họ đã gặp bão, và 8 người
kia bị sóng gió hất khỏi boong tàu.
Thế nhưng Velasco đã không chết
trên biển. Sau 10 ngày trôi giạt không đồ ăn thức uống trên một cái
mảng, chàng thanh niên 20 tuổi này đã giạt vào bờ. Lúc đó anh chỉ còn
thoi thóp thở. Anh kể lại rằng anh và 7 người bị hất xuống biển không
phải vì bão, mà bởi chính đồng đội, khi trên tàu chất đầy hàng lậu, và
tàu có nguy cơ bị chìm.
Vì câu chuyện này, tờ báo đã được
công chúng săn tìm nhiều đến mức tòa báo phải cho in lại nó trong những
đặc san với lượng ấn phẩm lớn gấp hai-ba lần so với các số báo bình
thường. Để minh họa, tòa soạn cũng cho in kèm ảnh những thủy thủ còn lại
chụp trên tàu, với cả những kiện hàng lậu có nhãn trên boong.
Câu chuyện đã làm mất mặt bộ tư
lệnh hải quân và chính phủ của nhà độc tài Gustavo Rojas Pinilla. Mặc dù
nó được ký tên Velasco, nhưng chính G. Marquez cùng với tòa soạn đã
chịu nhiều điều phiền phức vì câu chuyện.
Câu chuyện về Velasco là có thật.
Tuy nhiên, những chi tiết về diễn biến của quá trình trôi dạt được G.
Marquez hư cấu thì có nhiều nét gợi cho người ta nhớ đến Ông Già và Biển
Cả của E. Hemingway, câu chuyện về một ông già đi câu vật lộn với con
cá marlin khổng lồ mấy ngày trời trên biển, để rồi cuối cùng quay trở
lại bờ với bộ xương của con marlin được làm sạch nhẵn bởi hàm răng cá
mập. Jacques Gilard cho rằng G. Marquez đã viết “Relato de un Naufrago”
để thi thố với E. Hemingway về khả năng tưởng tượng và miêu tả.
Mặc
dù kính trọng và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi E. Hemingway, G. Marquez
chỉ thoáng gặp ông đúng một lần kéo dài trong mấy giây. Về lần gặp đó,
G. Marquez kể:
“Tôi ngay lập tức nhận ra ông
đang đi cùng bà vợ là Mary Welsh trên đại lộ St. Michel ở Paris trong
một ngày xuân ướt át của năm 1957. Ông đi bên phía đường đối diện, về
phía vườn hoa Luxembourg, vận quần cao bồi đã cũ, áo kẻ sọc, mũ lưỡi
trai. Thứ duy nhất có vẻ không ăn nhập với con người ông là cặp kính
gọng kim loại, nhỏ và tròn, tạo cho ông vẻ già quá sớm. Khi đó ông gần
60, người to đậm, nhưng không gây ấn tượng về một thứ sức mạnh dữ dội mà
chắc chắn ông muốn có, vì xương chậu hẹp và cặp giò khẳng khiu xỏ trong
đôi giày thợ rừng. Nhìn ông loạt bát bên những quầy bán sách cũ và dòng
người trẻ trung đi ra từ đại học Sorbonne, đến mức không thể hình dung
ông chỉ còn sống được 4 năm nữa.
Trong không đến một giây, như vẫn
thường xảy ra, tôi thấy mình lưỡng lự giữa hai ý định. Tôi không biết
nên xin phỏng vấn ông hay đi qua đường để thể hiện sự ngưỡng mộ vụng về
trước ông. Tôi thực sự gặp phải tình huống bất ngờ. Hồi đó, tôi nói
tiếng Anh khá tồi, và bây giờ vẫn còn tồi, và cũng không dám tin chắc về
trình độ tiếng Tây Ban Nha của người đấu bò như ông. Và thế là tôi
chẳng làm điều gì trong hai điều có thể làm khi đó. Thay vào đó, tôi
khum hai bàn tay trên miệng, như Tarzan trong rừng, và la lên từ bên này
đường: “Maaaeeestro!” (Maestro; tiếng Tây Ban Nha: Thầy ơi!) Ernest
Hemingway hiểu ngay rằng giữa đám sinh viên kia không có ai là thầy, và
ông quay sang, kêu lên bằng tiếng vùng Castile với giọng đặc con nít:
“Adiooos, amigo!’” (Tạm biệt anh bạn!) Đó là lần duy nhất tôi gặp ông.
MICHAEL LANG sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét