Con người sinh ra tự do nhưng ở đâu cũng có xiềng xích. J.J. ROUSSEAU.

19 thg 3, 2021

Qui Nhơn Ơi


Kiều Giang
Đêm nay "trăng tỳ hải" rụng xuống ngọn Phương Mai.
Ta ôm hôn Shakespeare
trở về trong mắt ai tình tự,
Qui nhơn thành cô lữ,
bước đi trong hoang vắng mơ màng.
Hỡi Thanh giang,
em chảy qua chiều mơ hoang
chia đôi dòng lệ úa,
Tháp Đôi đang thắp lửa đón ai về?
Ta một mình hát trong mê
bài tình ca, người không còn cần nữa.
Mắt Qui Nhơn, đèn khuya Nguyễn Huệ,
sờ sững giữa trời, thăm thẳm biển đêm.
Ghềnh Ráng chênh vênh,
Hàn Mặc Tử nhớ thương ai
mà bẻ câu thơ ném xuống Qui Hòa.
Ta một đời, nào biết xa hoa,
vắt trên lưng con tuấn mã,
đi tìm em,
mắt phồn hoa ẩn hiện phía chân trời,
người không về nữa đâu,
Qui Nhơn ơi
ta treo câu thơ lên mũi Phương Mai,
mặt trời không còn tồn tại,
ta bước qua Thi Nại,
biết em sẽ mãi mãi không về.

Chạy Trốn


Truyện ngắn Kiều Giang
1. Có lẽ không có ai dám nói là mình có thể định nghĩa đầy đủ, thế nào là sự bất hạnh lứa đôi trong cuộc nhân sinh. Nhưng chắc chắn sẽ có ai đó tự cho rằng, mình có thể đã cảm nhận đầy đủ nỗi bất hạnh đó từ cái hạt bụi nhỏ nhoi ở trọ này. Cho nên, khi mở đầu tác phẩm bất hủ Anna Karênina, Léon Tolstoi đã nói rằng “ Mọi gia đình hạnh phúc, họ đều sung sướng một cách như nhau, nhưng mỗi gia đình bất hạnh, họ lại có một kiểu đau khổ riêng”.
Đã tám giờ sáng, nhưng nàng không thể nào nhấc nổi cái đầu ê ẩm, nặng như chì, lên khỏi gối. Nỗi bơ vơ lạc lõng lạnh giá đang bao trùm căn phòng. Nhìn lên trần nhà, nàng thấy hình như cái quạt đang quay tít, nhưng thực ra nàng đã tắt từ đầu hôm, vì cảm thấy lạnh.
Nàng cố moi trong trí óc nhỏ nhoi và thương tật của mình để tìm cho ra cái nguyên nhân mình bị đánh một cách tàn nhẫn đến như vậy. Đôi bàn tay hộ pháp lực lưỡng, tha hồ nhả những cú đấm như mưa xuống đầu nàng, thỉnh thoảng tóc nàng lại bị kéo giật mạnh, nàng cứ tưởng nắm tóc trên đầu nàng sắp bong khỏi da đầu rồi bay đi mất, hai cánh tay nàng bị hai đầu gối đè mạnh, thân thể nàng cứng ngắt, không thể nào còn cựa được, hơi men nồng nặc phà xuống mặt nàng, nàng muốn ngộp thở, nàng chỉ còn cách thét lên và van xin trong đêm tối một cách tuyệt vọng: “ vì các con, hãy tha chết cho tôi”, nhưng hình như tên đệ tử của Lưu Linh không còn nghe thấy gì.
Có lẽ hắn cũng đã thấm mệt. Người đàn ông bỏ về phòng mình rồi lăn kềnh ra ngủ. Nàng nằm lả, sõng soài như chết.Trên gương mặt thanh tú và đa cảm, làn da trắng mịn, loang lỗ những vết bầm mà nàng chưa bao giờ nghĩ đến, nàng nhấc cánh tay sờ lên đầu, xem thử mái tóc màu hạt dẻ mà có lần nàng đã tự mỉm cười trong gương, bây giờ có còn không !
Dựa vào chút hơi thở còn sót lại, nàng cố trấn tĩnh và tự hỏi, đây có phải là một trận đòn thù, và là trận đòn thứ mấy, mà tấm thân mảnh mai yếu đuối của nàng gánh chịu?
Không, không thể được, nàng chưa bao giờ làm gì để phải nhận một trận đòn thù, một suy nghĩ hụt hơi thoáng qua đầu nàng. Mỗi ngày, sau những giờ nàng phải hoàn thành nhiệm vụ ở công sở và làm thêm để kiếm đủ tiền nuôi con, trang trải những chi phí tối thiểu cho gia đình, nàng đã làm tất cả công việc nhà, từ giặt giũ nấu nướng cho đến việc vệ sinh nhà cửa. Người đàn ông gia trưởng ấy chẳng làm gì cả, vì tự cho mình là giòng dõi vua chúa, quý tộc. Cái tội lớn nhất và cũng là nỗi đau lớn nhất dính chặt vào đời nàng, có lẽ là thượng đế đã không ban cho nàng chút niềm vui nào, và nụ cười gần như không bao giờ chịu nở trên môi đầy vẻ gợi cảm ấy. Nàng trở thành một chiếc bóng di động, lầm lũi, thầm lặng và cô đơn, hiện lên một khuôn mặt đầy vẻ lạnh lùng, vì thế hắn nghĩ rằng nàng khinh hắn.
2. Đêm nay, bãi biển hoang sơ, không có một bóng người. Ánh trăng thượng tuần vẫn vô tình và lặng lẽ hôn lên những con sóng muôn đời trải mình trên bờ cát, gửi những tiếng thì thầm vào vô biên. Nàng chọn nơi đây, vì nàng muốn dành một sự tĩnh lặng tuyệt đối cho tâm hồn. Nàng muốn chối bỏ tất cả, nhất là muốn trốn chạy khỏi những trận đòn thù, nghiệt ngã và phi lý.
Nàng rảo bước theo chiều dài bãi biển, bóng nàng nát vụn trên đầu những con sóng. Không biết đã bao xa, và nàng đã đi bao lâu, chỉ biết rằng ánh trăng thượng huyền đã đi theo nàng từ đỉnh đầu, bây giờ đã chìm xuống gần đến đường chân trời phía tây, và đôi chân nàng, hình như cũng không còn nhích được nữa. Thật lẻ loi và hoang lạnh. Nếu trong một hoàn cảnh khác, chắc nàng sẽ rú lên vì sợ hãi, nhưng không hiểu sao, đêm nay, có ai đó đã tiếp thêm sức mạnh cho nàng. Nàng thanh thản ghé ngồi lên tảng đá nhỏ nhô giữa bãi cát, đưa mắt thẫn thờ nhìn ra biển đêm mênh mông, thấp thoáng những vì sao, rất xa, nhưng giữa lúc này, nàng cảm thấy chúng thật gần gũi với nàng.
Nàng phát hiện một chiếc thuyền buồm, không mấy xa bờ, có lẽ là thuyền đánh cá. Chiếc đèn bão trên đuôi thuyền hắt một vệt sáng màu vàng dài mờ nhạt lên mặt biển đêm đen thẫm, cùng những chấm sáng từ một rừng tàu đánh cá ở xa xa, như một dải ngân hà, tạo thành một tuyệt tác dưới bàn tay tài hoa của tạo hóa.
Nàng đưa tay vẫy, hình như con thuyền đã hiểu và đang tiến về phía nàng.Trên chiếc thuyền chài bé nhỏ chỉ có duy nhất một người. Dưới ánh trăng non nhạt nhòa, người đàn ông tuổi trạc thất tuần, nước da nâu đen rắn chắc, đôi vai rộng, đôi mắt to, hàng mi rậm, tóc hoa râm, dày và cứng, rối bù, tiến về phía nàng. Mùi nước biển lẫn mùi mồ hôi, mùi nắng lâu ngày, từ mái tóc, theo gió sộc vào mũi nàng. Nàng khẽ rùng mình. Người đàn ông lên tiếng:
-“Bà gọi tôi?”
Nàng lạnh lùng:
-“Không dám, nhưng có lẽ vậy”
-“ Sao lại có lẽ?”
-“ Tôi cũng không biết”
Gã sững lại:
-“Bà thật lạ lùng !”
Nhưng gã lại kiên trì:
-“ Nhưng tôi có thể giúp được gì cho bà? Tôi nghĩ, ở nơi hoang vắng, giữa lúc này, không phải để dành cho một người phụ nữ trông đài các như bà ?”
Quay lại nhìn người đàn ông, nàng bất ngờ với câu nói lịch lãm ấy. Nàng thả tầm mắt ra tận một hòn đảo xa, qua làn sương, chỉ còn là một chấm xanh đen mờ nhạt trên nền trời. Bất giác, nàng nói với gã ngư phủ:
-“ Tôi muốn thoát khỏi bãi biển này, thành phố này, và cả thế giới này, để đi đến một nơi thật xa, thật vắng vẻ, không còn có bóng người, một hoang đảo chẳng hạn”.
Nàng vừa phát hiện ra đôi mắt sáng và đôi môi dày đầy vẻ thách thức nhục cảm của người đàn ông, nàng nói tiếp:
-“ Xin lỗi, tôi đã đòi hỏi ở ông nhiều quá, và có thể vượt lên trên khả năng của ông, nhưng thực sự giờ đây tôi chỉ muốn trốn chạy”.
Người đàn ông vô cùng ngạc nhiên về quyết định liều lĩnh của người đàn bà mảnh mai yếu đuối, chưa bao giờ biết đến nắng gió và giông bão, chưa hề quen biết với ông, mà đã dám gửi cả sinh mệnh cho ông. Nhưng ông đã kịp dằn cảm xúc, và từ tốn:
-“ Thưa bà, tôi chỉ e rằng…”
-“ Ông ngại điều gì? Tôi thực sự không dám nói đùa với ông, tôi sẽ trả công cho ông”.
- “ Thưa không, tôi không muốn nói đến chuyện công cán, tôi chỉ sợ bà không dám phiêu lưu, và có lẽ bà cũng không nên phiêu lưu …”.
Người đàn ông muốn nói thêm gì đó nhưng đã kịp dừng lại, hai người bất chợt nhìn nhau và sự im lặng bao trùm lấy họ.
Hoang đảo đã hiện ra trước mắt nàng. Nàng chỉ thấy những ngọn đá dựng đứng lên bầu trời như những thanh kiếm của những chàng hiệp sĩ khổng lồ thời tiền sử, và rải rác trên những tấm thân khô khốc khẳng khiu đó là những bụi cây nhỏ nhoi trơ trọi bám vào, như thách thức với đất trời, với thời gian. Mặt trời hấp hối, đang chìm dần xuống mặt biển, nhả lại mảng màu đỏ ối lên những đám mây tạo thành những dải lụa hồng, vắt ngang bầu trời lặng lẽ mênh mông.
Gã ngư phủ dùng mái chèo đưa chiếc thuyền con cập sát vào bờ đá, rồi bảo:
-“Nhà tôi ở đây. Trên hoang đảo này chỉ có mình tôi. Tôi sống ở đây đã hơn 20 năm”.
3. Dưới ánh sáng mờ nhạt còn sót lại của buổi chiều hoang vắng, chỉ có một âm thanh duy nhất, đó là tiếng rì rào của sóng biển. Nàng như đang trở lại thời tiền sử. Gã ngư phủ dẫn nàng lần qua những bụi cây thấp đầy gai, mọc thưa thớt trên cát, đến một cửa hang, hai bên là hai vách đá, giữa có một lối đi nhỏ, cuối hang rộng mở, tối om, trên cao, hai tảng đá đã dính vào nhau như hai mái nhà. Gã đánh diêm châm nến. Ánh lửa leo lét chỉ đủ cho nàng thấy gương mặt lạnh lùng của gã và cái giường cây với chiếc chiếu manh sờn cũ, thấm mồ hôi, đã chuyển thành màu nâu đen. Gần đó là một cái bếp dã chiến. Mấy cái soong nhôm màu đen xỉn đóng một lớp khói dày, treo trên những chiếc đinh thép đóng vào vách đá. Cái bóng thật to của gã in lên tường, tạo cho nàng một cảm giác lung linh, mơ hồ. Gã nhìn nàng khá lâu rồi nói:
-“ Đêm nay, cái hang đá này là nhà của bà, cơm ở trong nồi và thức ăn ở trong túi da kia”. Nói rồi, gã lặng lẽ bỏ đi. Nàng thấy tưng hửng, hụt hẫng, nhưng không dám gọi, chỉ nhìn theo gã mất hút vào những bụi cây, nhòa trong bóng đêm.
Qua cách nói năng và phong thái của gã, nàng thoáng nhận ra, gã không phải là một người sống bằng nghề đánh cá, sự có mặt của gã khiến nàng tưởng tượng ra một cái gì thật bí ẩn đang núp sau lưng gã.
Còn lại một mình, nàng thấy đói và khát. Nàng không còn kịp nghĩ đến những phút giây mà nàng sắp đối diện, nàng không dám nghĩ đến và cũng không muốn nghĩ đến mọi thứ sắp xảy ra, nàng chỉ muốn đầu óc trống rỗng. Nàng uống mấy ngụm nước từ chiếc bi-đông mà người đàn ông đã ném cho nàng lúc ở trên thuyền, và lót dạ bằng một chén cơm đã chớm mùi ôi thiu, với mấy miếng cá khô nướng khói, lấy từ trong cái bao da treo trên vách.
Chưa bao giờ tiếng đồng hồ thời gian lại rơi chậm chạp xuống hồn nàng, như lúc này. Cây nến cũng đã cháy hết, hắt những giọt sáng cuối cùng lên vách đá rồi cũng tự chìm vào bóng tối. Không dám bước ra cửa hang, nàng ngã lưng lên chiếc giường cây ghép, mắt thao láo nhìn vào đêm đen, sâu thăm thẳm. Nàng cũng thiếp đi trong sự gục ngã của từng thớ thịt sau trận đòn thù và một ngày lênh đênh trên biển.
Đêm nay là đêm thứ ba, nàng ở trong “ngôi nhà đá”, một nhà giam mà thượng đế không cần cửa, vì chỉ có một mình nàng là sinh vật sống duy nhất. Không có thêm một con người nào nữa. Không có thú hoang. Thỉnh thoảng một bầy chim trời thoáng qua đảo, nhả lại những lời gọi bầy nghe thống thiết. Ngoài ra không có một tiếng động nào khác, dù chỉ là một hơi thở rất mong manh của sự sống. Gã ngư phủ vẫn không trở lại. Cả linh hồn và thể xác nàng rơi vào sự trống không của bóng tối. Nàng cảm nhận một sự giải thoát thực sự, một sự giải thoát không cần cầu nguyện, van xin.
Vừa chợp mắt, nàng mơ thấy gã ngư phủ trở về, nhưng lại trong y phục của Quang, người yêu của nàng, nhưng rõ ràng là hắn, chứ không phải Quang. Gã ngồi xuống bên nàng, rồi gã nói trong hơi thở: “Nàng là món quà vô cùng quý giá mà Thượng đế đã trao cho ta”. Nói xong, hắn cúi xuống ôm chặt lấy nàng và đặt những chiếc hôn vội vã, tới tấp lên môi, lên cổ, lên ngực nàng. Hàm râu kẽm của hắn lướt qua ngực, qua cổ, làm cho nàng có cảm giác rờn rợn. Nàng như muốn ngộp thở, cố vùng vẫy, nhưng cánh tay cứng như gọng sắt của hắn đã kịp giữ chặt hai cánh tay yếu đuối của nàng, đôi chân của hắn kẹp chặt đôi chân nàng, cánh tay còn lại, hắn kéo tuột xiêm y khỏi thân thể nàng, nàng thét lên và tự nhiên những giọt nước mắt trào lên khóe mắt. Trong nỗi tuyệt vọng, tấm thân liễu yếu của nàng chỉ còn lại những phản xạ kháng cự yếu ớt. Thế rồi cái vật mà Thượng Đế dùng để tạo ra sự khác biệt của Adam, dài cứng và hâm hấp nóng, đè lên đùi nàng, dần dần trườn vào người nàng, khi đó nàng mới cảm thấy nỗi bất lực cay đắng của thân phận Eva của mình. Hắn bắt đầu hùng hục, hơi thở dồn dập, hai cánh tay hắn siết chặt lưng nàng, quyết thể hiện bản chất nam nhi đầy uy lực của hắn, còn nàng lại cảm nhận một nỗi tê dại lân lân, mỗi lúc một rõ dần và lan tỏa đi khắp cơ thể, hồi lâu, một cách vô thức, hai cánh tay nàng ôm bấu vào lưng hắn và rên khe khẽ…
Một cơn gió mạnh đẩy tấm phên tre đập vào tường đá làm cho nàng tỉnh giấc. Nàng bàng hoàng trước cơn mộng. Cảm giác đê mê vẫn chưa tan hết trong từng thớ thịt của nàng, “đầm đìa lá liễu”, không biết nàng nên nguyền rủa hay tiếc rẻ, một nỗi bâng khuâng dâng ngập trong tâm trí nàng. Vâng, cũng là đôi cánh tay của người đàn ông lực lưỡng, nhưng mỗi cánh tay lại có một mục đích, một ý nghĩa riêng, và dẫn đến một hậu quả khác, một sự so sánh thoáng qua trong lòng nàng, một bản chất đầy mâu thuẫn của trần gian, làm cho nàng phải cúi mặt để giấu những giọt nước mắt đang lã chã nhỏ xuống thân phận mình.
Nàng bước ra trước cửa hang, ánh trăng cận rằm đã ngã về nửa trời tây. Hắn vẫn biền biệt, như Quang, người yêu của nàng, xa như những ngôi sao đang le lói ở chân trời. Không biết nàng có đang trông ngóng ai không, chỉ biết rằng nàng đang tận hưởng sự tĩnh lặng tuyệt đối của đất trời và nỗi cô đơn hiện hữu trong lòng nàng, một trải nghiệm mà không dễ mấy ai nếm thử một lần trong đời. Nàng nhếch mép cười rồi lẩm bẩm:“ Như thế này, có phải ta đã thật sự trốn thoát? ”
(Trong tập truyện NGƯỜI NGỒI VẼ CHÂN DUNG THỜI GIAN)

Qua Đỉnh Phù Vân

Thơ Kiều Giang
Rượu nào
em rót tặng anh,
Rượu nào
em dặn
để dành hư vô,
Biển tình
bao lớp sóng xô,
Chở mây
về lấp nửa bờ Sông Ngân,
Hẹn nhau
qua đỉnh phù vân,
Tỉnh say
chìm giữa
mấy tầng cô liêu,
Nói gì,
khẽ quá,
em yêu,
Nghiêng lòng
uống cạn
mỹ miều trong em.
(Trong tập thơ BIỂN KHÁT)

Đâu Phải Lỗi Của Thời Gian


Thơ Kiều Giang
Đóa hồng lung linh sáng hôm qua,
cùng với những giọt sương đêm,
còn lưu luyến một thời xa xăm,
ta đã yêu đóa hoa và đem cất vào gam màu xám của nơ-ron,
hôm nay đóa hoa đã trở thành thiên cổ,
ta còn ngồi khóc một mình trong ký ức,
và hình như cánh hoa cũng nhỏ lệ
trong hồn của những kẻ đã sống với những hoài niệm,
tạo hóa thương ta, đưa tay vẽ đóa hoa, trả lại ,
nhưng ta vẫn thấy buồn,
vì đó không phải là đóa hoa của ngày hôm qua,
ta gạt nước mắt thì thầm:
nhưng không phải là lỗi của thời gian.
Có người mẹ mở mắt nhìn đứa con lần cuối,
rưng rưng những giọt lệ màu trắng,
đôi tròng nhợt nhạt,
sức mạnh của trái tim không còn hiện lên đôi mắt,
môi thì thào gửi lại cho đứa con
những thứ đẹp đẽ nhất của trần gian,
rồi vĩnh viễn mắt bà khép lại,
đứa con không kịp nói…
hôm nay có người đàn bà nhận nó làm con,
đỡ cô đơn và đói rét,
nhưng nửa đêm thức giấc,
nước mắt bỗng trào ra,
người đàn bà kia không phải là mẹ nó,
nhưng nó cũng biết,
mẹ nó vẫn còn sống trong tâm tư,
chừng nào nó còn hiện diện trong cõi đời này,
nó cúi đầu thì thầm, tất cả những cuộc chia ly,
nào phải là lỗi của thời gian.
Hắn ôm chặt quyển sách mới viết xong hôm qua vào lòng,
tim hắn chưa kịp nguội,
môi hắn còn lẩm nhẩm lời cảm ơn luồng gió lương tri
thổi qua trái tim,
cảm ơn nỗi cô đơn đã làm bùng lên ngọn lửa,
những con chữ dào dạt lung linh,
máu chảy từ nợ duyên,
mang theo mùi huơng của của bầu sữa mẹ,
mùi hương của muôn ngàn loài hoa đang nở,
cả mùi khét lẹt của đạn bom,
mùi xác chết và phù sa,
tất cả đã đi qua,
chúng không bao giờ ngủ,
chúng đi qua trần gian như một bóng mây,
không thể nhốt.
Hôm nay, con chữ đã từ giã hắn
trở về với nghiệt ngã xanh rêu,
hắn mỉm cười, nhìn lên bầu trời:
không phải lỗi của thời gian.
Mười ba tỉ năm đọng lại trong đầu,
những khái niệm đọng lại trên những giác quan,
người ta cho hắn nuốt những miếng thịt,
hắn đi tìm nuốt những quyển sách,
hắn nuốt những đêm truy hoan,
hắn nuốt những ngày cùng với mặt trời ở địa ngục,
nên có khi hắn thề hắn sẽ tự sát,
có khi hắn lại đòi bắc thang lên thiên đường,
có khi hắn lại muốn vĩnh viễn ở trần thế,
hắn nổ ra những trận cười hoặc những đêm dài rên rỉ,
nhưng cuối cùng hắn chợt hiểu:
không phải lỗi của thời gian.
Tiếng sóng vẫn cứ vỗ vào ghềnh đá,
ký ức của anh không mòn,
chỗ anh ngồi ngày xưa,
bây giờ chỉ thêm màu xanh rêu trên đá,
con đường anh đi, nay mọc thêm những ngôi nhà,
chúng hình như đang mỉm cười,
cùng mái tóc của em ngày xưa bay trong gió,
hình như anh còn nghe hơi thở,
em muốn gửi vào tuơng lai,
nhưng em không bao giờ trở lại để nói với anh,
lời mà ngày xưa em chưa kịp nói,
nhưng em ơi,
cũng không phải lỗi của thời gian.
Hắn bắt đầu làm con thú hoang,
lang thang trên sa mạc,
không có quá khứ nào cả,
không có tương lai nào cả,
chỉ có bàn chân bỏng rát,
chỉ còn những những rễ cây bò trong hồn,
hắn không nguyền rủa cũng không ca ngợi thời gian,
hắn chỉ nguyền rủa hắn sao cứ mãi bước đi….
tất cả vẫn còn trong tính thể,
hãy bước tới với nụ cười của nhân chứng,
của nỗi khổ đau và hoan lạc,
tất cả đều không phải lỗi của thời gian.
(Trong tập GIỌT NƯỚC MẮT CỦA NGƯỜI HÁT RONG)
Ảnh: Đêm đông trên đường An Dương Vương QN.
Bạn, Nguyên Bình, Hoa Ban và 92 người khác
39 bình luận
Yêu thích
Yêu thích
Bình luận
Chia sẻ

Trên Nhành Bụi Hoang

 

Kiều Giang
ngày xưa
mụ mị thiên đường,
gió qua
đãng trí
còn vương bóng mình,
sông ngồi
bó gối lặng thinh,
cây thiên thu
gãy
trên nhành bụi hoang…