Bản dịch của Nguyễn Đức Tùng
ALICE MUNRO
(1931~)
Lời giới thiệu:
Alice Munro sinh ngày 10 tháng Bảy năm 1931 ở
Wingham, Ontario, Canada, với tên khai sinh là Alice Ann Laidlaw. Cha
của bà là chủ nông trại, mẹ là cô giáo. Bà trải qua tuổi thơ ở thị trấn
Clinton, nơi bà cũng thường trở về sau này. Theo học đại học Western
Ontario, nhưng rời trường sớm khi lập gia đình năm 20 tuổi. Bà và gia
đình sống ở một đảo ngoài khơi Vancouver nhiều năm nay, coi sóc tiệm
sách có tên là Munro. Hai ông bà có với nhau ba đứa con, hôn nhân của họ
thời trẻ có một thời kỳ tan vỡ ngắn. Sinh quán của Alice Munro,
Ontario, là tỉnh bang lớn nhất Canada, gần bên Ngũ Đại Hồ. Vùng phía nam
của tỉnh là vùng có khí hậu ôn hòa, cảnh sắc xinh đẹp, đất nông nghiệp
bằng phẳng, nhiều sông hồ. Trong truyện của Munro, có cảnh vật của
Ontario hoặc thiên nhiên hoang dã trên đảo Vancouver.
Truyện của bà viết về đời sống những người
bình thường, với văn phong giản dị, trong trẻo và đẹp. Nhưng đó là bề
ngoài dễ gây ngộ nhận. Thật ra văn của Alice Munro không dễ hiểu. Người
đọc cần chú tâm đến từng chi tiết mà bà để lại dọc đường. Bên trong là
sức mạnh của sự mô tả chính xác, phân tích sắc bén các xung đột, sự
nghiêm khắc với thói dung tục và a dua, tính hài hước, và lòng trắc ẩn.
Alice Munro nhận nhiều giải thưởng, trong đó ba lần giải General
Governor, giải thưởng danh giá nhất Canada, và giải Man Booker
International năm 2009. Dù sức khoẻ yếu, bà có khả năng làm việc đều
đặn, bền bỉ. Tác phẩm (tạm dịch): Vũ Điệu Những Cái Bóng Hạnh Phúc (Dance of The Happy Shades) [giải GG], Cuộc Đời Những Cô Gái và Đàn Bà (Lives of Girls and Women), Bạn Nghĩ Bạn Là Ai Kia? (Who Do You Think You Are), Những Mặt Trăng Của Mộc Tinh (The Moons Of The Jupiter), Tiến Triển Của Tình Yêu (The Progress of Love) [giải GG], Chạy Trốn (Runaway). Năm 80 tuổi, xuất bản tập Quá Sức Hạnh Phúc (Too Much Happiness). Tiếp sau đó, trước sự ngạc nhiên của nhiều người, tác phẩm mới Cuộc Đời Yêu Dấu (Dear Life).
Một truyện của bà, “Gấu Về Qua Núi” (“The Bear Came Over The
Mountain”), một chuyện tình cảm động, đã được Sarah Polley chuyển thành
phim với các tài tử Julie Christie và Gordon Pinsent. Truyện ngắn sau
đây, nguyên văn tiếng Anh “Miles City, Montana” rút từ tập The Progress of Love,
1985, NXB Alfred A. Knoft. Miles City là tên một thị trấn nhỏ, dân số
không quá một ngàn người, Montana là một tiểu bang ở vùng Tây Bắc nước
Mỹ, sát biên giới Canada.
Kín đáo, khiêm cung, Alice Munro không phải
là người của công chúng, và ít khi xuất hiện trên báo chí, ngoại trừ tác
phẩm của mình. Cách đây bốn năm, khi tôi đến nghe một buổi hội thảo ở
Vancouver sau giải Man Booker International, với nhiều nhà văn nổi tiếng
như Margaret Atwood đọc những tham luận xúc động, đầy yêu mến, nhằm
tuyên dương tác phẩm của bà, Alice Munro đã không có mặt. Trên thế giới
nhiều người vẫn không biết đến tên bà – mặc dù năm 2005, tuần báo Time đã
chọn bà là một trong 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất – cho đến ngày 10
tháng 10 năm 2013 vừa qua. Ngày hôm đó, Ủy ban giải thưởng Nobel đã
không thể liên lạc được với nhà văn để báo tin vui. Các độc giả cũng
không tìm đọc bà như tìm đến các tên tuổi văn học khác, đôi khi họ bắt
gặp bà một cách tình cờ trên kệ sách, và tự hỏi: bà này là ai?
Tôi chọn truyện “Miles City, Montana” vì đó
là truyện ngắn đầu tiên của bà mà tôi được đọc, cách đây mười bốn năm,
trong một thời kỳ hỗn loạn. Truyện của bà đã giúp tôi đứng lại, nhìn
xuống, thấy được chính thật tình trạng của mình. Tôi dịch truyện ngắn
này như một lời cám ơn lặng lẽ.
_______
THỊ TRẤN BÊN ĐƯỜNG
Cha tôi băng qua cánh đồng ôm xác một đứa bé trai bị chết
đuối. Họ có nhiều người, trở về sau cuộc lùng kiếm, nhưng ông là người
mang xác thằng bé. Những người đàn ông mình mẩy đầy bùn, mệt lả, bước đi
đầu cúi xuống, như thể họ là những người có lỗi. Ngay những con chó
cũng chán nản, lông nhểu nước từ con sông lạnh giá. Thế mà vài giờ trước
đó khi khởi sự, chúng còn tỏ ra bồn chồn, chạy quanh sủa ăng ẳng, những
người đàn ông quyết tâm, căng thẳng, và có một không khí kích động bị
kìm nén lại, không diễn tả được, bao trùm toàn bộ khung cảnh. Lúc đó ai
cũng biết rằng có thể họ sẽ tìm thấy một điều gì khủng khiếp.
Tên của thằng bé là Steve Gauley. Tám tuổi. Tóc và quần
áo nó nhuốm bùn, bê bết cỏ, cành vụn và lá chết. Nó là nỗi cự tuyệt được
gởi lại từ mùa đông. Mặt nó úp vào ngực cha tôi, nhưng tôi vẫn còn thấy
được một lỗ mũi, một vành tai nhét đầy bùn xanh lợn cợn.
Tôi không nghĩ thế. Tôi không nghĩ rằng tôi đã thực sự
trông thấy những điều ấy. Có lẽ tôi đã thấy cha tôi mang xác thằng bé,
thấy những người khác đi theo ông, những con chó, nhưng tôi không thể
nào được phép đến gần tới mức nhìn thấy một thứ gì như bùn trong lỗ mũi.
Chắc là tôi đã được nghe ai đó kể lại và tự mình tưởng tượng ra. Tôi
nhìn thấy khuôn mặt của nó không thay đổi trừ những vết bùn – khuôn mặt
quen thuộc của thằng Steve, mặt nó nhọn, vẻ lém lỉnh – và thật ra không
thể nào như thế được; nó phải sưng phồng lên chứ, phải biến dạng và dính
bùn khắp nơi sau nhiều giờ ngâm trong nước.
Việc mang về một tin như thế, một bằng chứng như thế, cho
một gia đình mỏi mắt trông chờ, nhất là người mẹ, khiến cho những người
đi lùng kiếm đứa bé cử động nặng nề, nhưng điều đang xảy ra ở đây còn
tệ hại hơn nữa. Rõ ràng là có một nỗi xấu hổ (nghe người ta nói thế)
rằng thật ra chẳng có một người mẹ nào cả, chẳng có một người phụ nữ nào
hết – không bà nội không bà ngoại không cô không dì không chị không em –
đứng chờ thằng Steve và trao cho nó nỗi đau buồn thương tiếc xứng đáng
kia. Cha của Steve là một người làm công, hay uống rượu nhưng không phải
là kẻ say sưa, một người đàn ông được chăng hay chớ nhưng không phải
quá ham chơi, một kẻ không thân thiện mấy nhưng không làm phiền ai. Mối
tình phụ tử xem ra cũng ngẫu nhiên, và vì đứa bé bị người mẹ ra đi bỏ
lại, và hai cha con vẫn tiếp tục sống với nhau, xem chừng càng có vẻ
tình cờ. Họ sống trong ngôi nhà với mái nhọn lợp gỗ xám ở xó núi quê
mùa, trông chỉ khá hơn túp lều chút đỉnh – người cha sửa chữa mái nhà và
dựng những cái giá đỡ ở bên dưới, cũng vừa đủ thôi và cũng đúng lúc cần
thiết – và cuộc đời của hai cha con cũng dựa dẫm vào nhau tương tự như
thế; tức là cũng tốt vừa đủ để cho cơ quan can thiệp vì quyền lợi của
trẻ em không can dự vào gia đình của họ. Hai cha con không ăn chung với
nhau, không ai nấu cho ai, nhưng nhà vẫn có thức ăn, đôi khi người cha
cho con một ít tiền để mua thức ăn ở tiệm và người ta thấy thằng Steve
tới đó mua những thứ xem ra cũng cần thiết như bột làm bánh hay bữa ăn
tối kiểu bột mì có thịt.
Tôi biết rõ Steve Gauley. Tôi cũng thích nó, nhưng phần
nhiều là không thích. Steve lớn hơn tôi hai tuổi. Nó đến chơi ở chỗ
chúng tôi vào các ngày thứ bảy, ra vẻ coi khinh những trò của tôi nhưng
lại không thể bỏ mà đi được. Tôi cũng không thể ngồi lên ghế xích đu mà
không có nó khởi động và khi tôi có muốn bỏ cuộc nó liền chạy tới đẩy
một cái khiến tôi hoảng lên co rúm người lại. Nó chọc ghẹo những con
chó. Nó làm cho tôi phiền bực – có tính toán và rất quỷ quái, sau này
tôi nghĩ lại – bằng cách khiến tôi làm những việc mình không tự nghĩ ra:
đào khoai lên để xem chúng lớn cỡ nào khi còn nhỏ xíu, chất củi lên
thành đống để chúng tôi nhảy từ trên đó xuống. Ở trường chúng tôi chẳng
bao giờ nói chuyện với nhau. Steve cô độc nhưng không đau khổ. Nhưng vào
những buổi sáng thứ bảy, khi chợt nhìn thấy cái dáng của nó điềm tĩnh,
gầy gò, xuyên qua hàng rào dương liễu, tôi biết là tôi sắp tham dự một
điều gì đó và Steve sẽ quyết định điều ấy. Đôi khi chúng cũng êm xuôi.
Chúng tôi giả đò làm cao bồi huấn luyện những con ngựa hoang. Chúng tôi
chơi đùa trên cánh đồng cỏ gần bờ sông, không xa lắm chỗ Steve bị chết
đuối. Chúng tôi giả đò làm ngựa và kỵ sĩ, la hét, mang dây nhợ, vung vẩy
những ngọn roi làm bằng cây lá, ở trên bờ con sông không tên chảy xuôi
xuống vùng Saugeen ở phía Nam tỉnh Ontario.
Đám tang được tổ chức trong nhà chúng tôi. Nhà của Steve
không đủ chỗ cho đám đông đến dự bởi tình cảnh đặc biệt. Tôi vẫn còn lưu
giữ ký ức về căn phòng đầy người nhưng không nhớ là có tấm hình nào của
thằng Steve trên quan tài của nó hay có linh mục nào đến làm lễ, hay có
những tràng hoa được gởi đến. Tôi chỉ nhớ rằng tôi cầm một bông hoa,
loại thủy tiên màu trắng, chắc là ngắt từ chậu bông ai đó đẩy vào cửa,
vì lúc ấy chưa phải là mùa của liên kiều trổ bông hoặc hoa huệ và cúc
vạn thọ hay gặp trong rừng. Tôi đứng trong hàng của những đứa trẻ, mỗi
chúng tôi cầm một bông thủy tiên. Chúng tôi đồng ca bài hát của trẻ con,
có một người nào đó chơi dương cầm: “Khi Người Đến, Khi Người Đến, Làm
Nên Châu Ngọc Rạng Ngời”. Tôi mang đôi tất màu trắng, chúng ngứa kinh
khủng, đầy những nếp nhăn ở đầu gối và mắt cá chân. Cảm giác đối với
những đôi tất này trên chân tôi lẫn lộn với cảm giác trong ký ức của
tôi. Thật khó diễn tả. Chắc là chúng có liên quan gì đó tới cha mẹ tôi.
Liên quan tới người lớn nói chung nhưng đặc biệt là cha mẹ tôi? Cha tôi
người là mang xác Steve từ bờ sông lên, và mẹ tôi là người gần như đã
làm tất cả các việc thu xếp cho tang lễ này. Cha tôi trong bộ đồ vest
màu xanh sậm và mẹ tôi trong chiếc áo đầm nhung nâu với cái viền cổ
sa-tanh kem. Họ đứng bên nhau mở miệng ra khép miệng lại trong bài
nguyện ca, và tôi đứng xa, giữa những đứa trẻ khác, nhìn chăm chú. Tôi
có cảm giác ghê tởm điên cuồng và đau đớn. Trẻ con đôi khi có cảm giác
bực bội căm ghét như thế đối với người lớn. Kích thước, những cái bóng
lổn nhổn, sức mạnh bồng bềnh. Hơi thở, sự thô ráp, lông lá, sự chế tiết
khó chịu. Nhưng còn hơn thế nữa. Và cơn giận đi kèm chẳng có gì rõ ràng
và đúng mức. Không có một việc gì làm thoải mái hơn và cuối cùng tôi gập
người lại nhặt một hòn đá ném về phía Steve. Không thể nào hiểu được
hay diễn tả được, mặc dù cảm giác ấy dần biến thành một thứ nặng nề,
thành mùi vị trên lưỡi, một mùi vị tình cờ – loãng, đầy nghi hoặc hay
quen thuộc.
Hai mươi năm sau hoặc lâu hơn nữa, năm 1961, chồng tôi,
Andrew, và tôi mua được một chiếc xe mới toanh, cái xe đầu tiên – tức là
cái xe mới đầu tiên. Hiệu Morris Oxford, màu vỏ hàu (người bán xe gọi
nó bằng một cái tên thú vị hơn) – một chiếc xe loại nhỏ khá bự, với
nhiều chỗ ngồi đủ cho chúng tôi và hai đứa trẻ. Con bé Cynthia lên sáu
và Meg ba tuổi rưỡi.
Chồng tôi chụp một bức ảnh tôi đứng bên xe hơi. Tôi mặc
quần trắng, áo cổ cò màu đen, và mang kính râm. Tôi đứng dựa vào cửa xe,
nghiêng hông để làm mình gầy đi.
“Tuyệt vời,” chồng tôi nói. “Hay lắm. Nhìn em giống Jacky Kennedy.”
Thời ấy khắp nơi những phụ nữ trẻ tuổi, tóc đen, mảnh
mai, đều được bảo rằng, khi họ diện đồ sành điệu, hoặc khi chụp hình,
trông giống đệ nhất phu nhân Jacky Kennedy.
Andrew chụp nhiều hình cho tôi và những đứa trẻ, nhà
chúng tôi, khu vườn, đồ đạc, kỷ vật. Anh chụp hình, ghi chú tỉ mỉ lên
đó, gởi về cho mẹ của anh và dì của anh và cậu của anh ở Ontario. Anh
cũng đưa những bức hình để tôi gởi cho ba tôi, cũng đang sống ở Ontario,
và tôi cũng làm thế nhưng không đều đặn như anh. Khi nhìn thấy những
bức ảnh lẽ ra tôi phải gởi đi rồi hãy còn nằm lăn lóc, Andrew bối rối
bực bội lắm. Anh muốn những thứ kỷ vật này được chuyển đi hết.
Mùa hè năm đó chúng tôi về thăm nhà thật, chứ không phải
chỉ những bức hình. Chúng tôi lái xe từ Vancouver, nơi đang sinh sống,
về Ontario, nơi chúng tôi cũng gọi là nhà, trên chiếc xe hơi mới toanh.
Năm ngày đi đường, mười ngày ở đó, năm ngày trở về. Lần đầu tiên Andrew
được nghỉ làm trong ba tuần lễ. Anh làm việc trong bộ phận pháp luật của
công ty thủy điện tỉnh bang British Columbia.
Buổi sáng thứ bảy, chúng tôi mang vali, hai bình thủy –
một cà phê, một nước chanh đường – trái cây, bánh mì, sách ảnh, vở tô
màu, bút chì, giấy vẽ, thuốc diệt côn trùng, áo len (phòng khi trời lạnh
ở trong vùng núi), và hai đứa con gái của chúng tôi lên xe hơi. Andrew
khóa cửa lại và Cynthia nói kiểu cách: “Chào giã biệt, nhà ta ơi.”
Meg nói: “Chào giã biệt, nhà” rồi nó nói thêm “Thế bây giờ chúng ta sống ở đâu?”
“Không phải chia tay mãi mãi,” Cynthia nói “Chúng mình sẽ trở về. Mẹ ơi! Con Meg nghĩ là chúng ta sẽ không bao giờ về đây nữa.”
“Em có nói thế đâu,” Meg bảo, lấy chân đá vào sau lưng
chiếc ghế ngồi của tôi. Andrew và tôi mang kính râm lên và chúng tôi lái
xe vượt qua cầu Sư tử xuyên qua cửa ngõ Vancouver. Chúng tôi rũ bỏ ngôi
nhà của mình, hàng xóm của mình, thành phố của mình, và – ở biên giới
giữa tiểu bang Washington và tỉnh British Columbia – đất nước chúng tôi.
Chúng tôi lái xe về phía Đông đi xuyên qua nước Mỹ, dọc theo xa lộ cực
Bắc, con đường này sẽ chạy trở vào Canada lần nửa ở Sarnia, Ontario. Tôi
không biết chúng tôi đã chọn con đường này vì thời ấy quốc lộ xuyên
Canada chưa xây dựng xong hay vì chúng tôi muốn có cảm giác lái xe qua
một nước khác, chỉ hơi khác một chút thôi – một chút đỉnh của sự thú vị
và phiêu lưu.
Ai cũng phấn chấn. Andrew khoái chí hoan hô chiếc xe hơi
nhiều lần. Anh nói anh thấy rõ là nó chạy ngon hơn chiếc xe cũ của chúng
tôi, một cái xe Austin đời 1951 bò chậm như rùa khi lên dốc và mang
hình ảnh một bà già rầu rĩ. Andrew bảo thế.
“Thế chiếc xe mới này có hình ảnh của cái gì?” Cynthia
hỏi. Nó lắng nghe chúng tôi chăm chú và thích tập nói những chữ mới lạ
như chữ hình ảnh. Thường nó nói cũng đúng.
“Sống động,” tôi bảo “Giống kiểu xe thể thao. Nhưng không khoe mẽ.”
“Nó tiện lợi, nhưng vẫn có đẳng cấp riêng,” Andrew bảo.
“Giống như hình ảnh của anh.” Cynthia ngẫm nghĩ về điều ấy và nói với sự
tự hào thận trọng “Thế nghĩa là giống như ba muốn ba cũng y vậy, phải
không ba?”
Tôi thật hạnh phúc vì cảm giác rũ bỏ. Tôi muốn rũ bỏ hết.
Trong ngôi nhà của mình dường như lúc nào tôi cũng tìm chỗ để trốn –
đôi khi trốn mấy đứa trẻ nhưng nhiều hơn là công việc cần làm, tiếng
điện thoại reo và giao thiệp với hàng xóm. Tôi muốn chạy trốn, ẩn núp để
có thể tập trung vào công việc thật sự của mình, một thứ gì như gợi lại
quá khứ xa xăm. Tôi đã sống trong tình trạng bị vây hãm, khi nào cũng
đánh mất một điều gì tôi đang giữ trong tay. Nhưng cuộc du hành mới dễ
dàng làm sao. Lúc này tôi có thể trò chuyện với chồng, với các con và
quan sát những điều chúng muốn tôi quan sát – một con lợn ở trên bảng
chỉ đường, một con ngựa non trên cánh đồng, một chiếc xe hơi Volkswagen
nằm trên xe tải lớn – và đổ ly nước vào những chiếc tách nhựa, và những
thứ này thứ kia bay hòa quyện trong nhau suốt ngày trong tôi. Một sự kết
hợp quan trọng mà tôi có thể đạt tới. Điều này làm tôi đầy hy vọng,
thấy tâm hồn thanh thản, nhẹ nhõm, mà một người quan sát bàng quan mới
làm được. Một người quan sát chứ không phải một người canh giữ.
Chúng tôi rẽ về phía Đông ở Everett và vượt lên vùng
Cascades. Tôi chỉ cho Cynthia lộ trình trên bản đồ. Trước hết tôi chỉ
cho con bé bản đồ của toàn nước Mỹ, đồng thời cũng thấy được phần cực
Nam của Canada. Tôi dở qua trang khác của cuốn bản đồ gồm những tiểu
bang mà chúng tôi đi qua. Washington, Idaho, Montana, North Dakota,
Minnesota, Wisconsin. Tôi chỉ cho Cynthia những vạch đứt quãng xuyên hồ
Michigan, cũng là đường của chuyến phà chúng tôi sẽ qua. Kế đó chúng tôi
sẽ lái xuyên Michigan đến cây cầu nối liền Hoa Kỳ và Canada ở vùng
Sarnia, Ontario. Về nhà.
Bé Meg cũng muốn nhìn.
“Mày đâu có hiểu gì,”Cynthia bảo. Nhưng nó cũng lôi tập bản đồ ra băng ghế sau.
“Ngồi xuống đi,” nó bảo em “Ngồi yên. Chị chỉ cho mà xem.”
Tôi có thể nghe tiếng động những ngón tay Cynthia chỉ
đường cho Meg rất chính xác, như tôi vừa mới làm với nó. Nó coi hết bản
đồ các tiểu bang, biết cách tìm chúng theo mẫu tự.
“Mày có biết cái vạch kẻ này là đường gì không?” Cynthia
hỏi. “Cái đó kêu bằng xa lộ. Đó là nơi mà chúng ta sẽ lái xe đi. Chúng
ta đang đi trên chính cái vạch này đây.”
Meg chẳng nói gì cả.
“Mẹ ơi, chỉ cho con chúng ta đang ở chỗ nào lúc này,” Cynthia nói.
Tôi lấy tấm bản đồ lên, chỉ con đường đi xuyên qua núi,
và nó lấy lại bày cho Meg. “Có thấy vạch kẻ này không, nó rất là ngoằn
nghoèo. Nó ngoằn nghoèo bởi vì có nhiều lối vòng quanh. Những chỗ ngoằn
nghoèo là những khúc quanh.” Nó lật một trang rồi chờ một lát. “Bây giờ
chỉ cho chị xem chúng ta đang ở đâu.” Rồi nó kêu lên với tôi “Mẹ, Meg
hiểu. Nó chỉ ra được cái chỗ đó. Meg cũng hiểu bản đồ!”
Đối với tôi có vẻ chúng ta bịa tạc ra các phẩm chất của
trẻ con. Chúng ta xếp đặt chúng sao cho mọi thứ vận hành êm thắm.
Cynthia thì sáng láng và cần cù, nhạy cảm, nhã nhặn, cẩn thận. Thỉnh
thoảng chúng tôi vẫn trêu đùa nó về việc quá chú ý, chuyên tâm làm bằng
được những điều thật ra thâm tâm chúng tôi cũng muốn. Bất cứ cái gì chậm
chạp, bị thất bại, bị cự tuyệt, đều làm nó xúc động sâu xa. Con bé có
mái tóc mượt, làn da đẹp nõn nà, nhưng dễ bị ăn nắng, dễ ngấm mùi của
gió, của lòng tự hào, của cả sự tủi hờn. Meg thì cứng rắn hơn, kín đáo
hơn – không nổi loạn nhưng đôi khi ương ngạnh, bí ẩn. Sự lặng lẽ của nó
gây cảm giác về sức mạnh của tính cách, trong khi sự ương ngạnh lại là
dấu hiệu của tính độc lập điềm tĩnh. Tóc nâu, và cắt thành những lọn
thẳng. Mắt vàng sẫm, trong veo, chói sáng.
Chúng tôi hài lòng với những tính cách của con mình,
thích thú với vẻ trái ngược nhau và vẻ xác định của từng cá tính. Chúng
tôi không thích lắm quan điểm nặng nề, bảo thủ của cha mẹ. Tôi sợ cảm
giác trở thành kiểu bà mẹ thân thể thì chảy xệ xuống, người nặng mùi vải
bông, mùi sữa, nghiêm khắc với ba chuyện vặt vãnh. Tôi tin rằng tất cả
những nỗi lo lắng quá mức của người mẹ, nhu cầu của họ vác lên vai vai
trò của mình, chính là nguyên nhân của chứng đau khóc dạ đề ở trẻ con,
chứng đái dầm, chứng hen suyễn. Tôi thích nuôi dạy con kiểu khác – sự
liều lĩnh đầy giễu cợt, tính chế nhạo của những bà mẹ có trình độ chuyên
môn thường viết bài cho các tạp chí. Trong các tạp chí ấy, những đứa
trẻ tự mình lớn lên, sắc cạnh, bất thường, không bị bẻ gãy. Có những bà
mẹ, với sự hóm hỉnh thông minh của họ, đã cứng cỏi được như thế. Những
người mẹ trong đời thật làm tôi thích thú là những người có thể nhấc
phone lên và thản nhiên nói, “Liệu cái bào thai Hitler của tôi có vô
tình chạy qua nhà chị không?” Họ có thể cười hăng hắc trên đám sương mù
đặc như sữa.
Tôi nhìn thấy một con nai chết cột trước chiếc xe tải nhỏ.
“Có ai đã bắn hạ nó,” Cynthia nói, “Những người thợ săn bắn mấy con nai.”
“Mùa săn đã tới đâu,” Andrew trả lời. Chắc là họ tông
phải nó trên đường. Con có thấy bảng báo hiệu vẽ nai băng qua đường
không?”
“Con sẽ khóc nếu chúng ta tông phải một con nai,” Cynthia nói nghiêm nghị.
Tôi làm những cái bánh mì kẹp với bơ, đậu phụng, mứt cam
và quýt cho mấy đứa trẻ và món cá hồi sốt cà chua cho chúng tôi. Nhưng
tôi không bỏ rau diếp xà lách vào và Andrew tỏ ra thất vọng.
“Nhưng em chẳng có miếng nào,” tôi bảo.
“Thế em chẳng có cách nào kiếm được à?”
“Em đã mua cả một bó cải xà lách vừa đủ cho bánh mì xăng uých, nhưng rồi em nghĩ không cần.”
Thật ra tôi nói dối, tôi đã quên mất.
“Có rau diếp xà lách thì ngon hơn,” anh nói.
“Em thì thấy chẳng có gì khác nhau,” sau một hồi tôi nói. “Đừng có cáu kỉnh như thế chứ.”
“Anh không cáu, anh chỉ thích xà lách ở trong món bánh mì kẹp mà thôi.”
“Em chẳng nghĩ chuyện đó quan trọng chi.”
“Thế nếu anh quên đổ xăng thì sao?”
“Hai chuyện đó khác nhau chứ.”
“Thôi hãy hát một bài ca,” Cynthia bảo. Rồi nó bắt đầu hát.
Năm chú vịt nhỏ một ngày đi ra
Đi lên ngọn đồi và đi thật xa
Một chú vịt nhỏ đi qua và kêu
Quác quác quác
Bốn con vịt nhỏ lúc lắc quay về
Andrew siết chặt tay tôi, bảo “Thôi mình đừng cãi nhau nữa.”
“Anh nói đúng. Lẽ ra em cần phải mua cải xà lách.”
“Thôi chuyện đó có chi quan trọng đâu.”
Tôi ước gì tôi có thể hướng những cảm giác về Andrew
thành những cảm hứng có ích và đáng tin cậy. Tôi đã cố gắng viết hai
danh sách, một là những thứ mà tôi thích về anh, cái kia là những thứ
tôi không thích – trong đời sống thân mật vợ chồng có những thứ tôi
thích, những thứ tôi ghét – như thể tôi hy vọng rằng điều này có thể
mang lại một chứng minh nào đó, một kết luận nào đó. Nhưng rồi tôi lại
bỏ cuộc vì thấy những điều ấy tôi biết rồi – rằng tôi có nhiều mâu thuẫn
không sửa được. Đôi khi tiếng bước chân của anh ấy đối với tôi cũng có
vẻ độc tài chuyên chế, cái miệng của anh ấy cũng có vẻ bần tiện và tự
mãn, thân thể của anh cứng rắn thẳng thớm như một rào cản – một cách đầy
ý thức, đầy bổn phận, sự hài lòng đáng ghét của quyền lực đàn ông – ở
giữa tôi và niềm vui sướng hay nhẹ nhõm mà tôi có thể đạt được trong đời
mình. Thế rồi không hề báo trước anh bỗng trở thành người bạn tốt, một
người bạn đường quan trọng nhất trên đời. Tôi cảm nhận sự ngọt ngào của
thân xác thanh thản, ý tưởng nghiêm nghị, sự yếu đuối dễ vỡ của tình yêu
của anh, mà tôi hình dung ra là nó thuầm khiết hơn và trong sáng chân
thật hơn so với tình yêu của tôi. Tôi có thể khi thì xúc động sâu xa vì
sự cứng cỏi, tính khuôn phép đúng mức, khi thì chế nhạo chúng. Tôi nghĩ
chồng tôi thật là khiêm tốn khi đứng ngay ngắn vào vị trí của người
chồng đã mặc định, vai trò của người cha, một người đi làm việc mang
tiền về, và khi tự so sánh với những người đàn ông như vậy, tôi thấy
mình là kẻ ích kỷ đáng ghét bí mật. Cũng không hẳn bí mật lắm, không
phải nhìn từ phía anh.
Từ dưới sâu xa những cuộc cãi lộn giữa hai vợ chồng,
chúng tôi lột hết những sự thật xấu xa nhất. “Anh biết có một điều gì đó
rất ích kỷ và rất giả dối ở nơi em,” Andrew có lần nói, “Anh lúc nào
cũng biết chuyện đó. Anh cũng biết rằng chính vì vậy mà anh yêu em.”
“Đúng thế,” tôi trả lời. Cảm thấy đau buồn nhưng tự mãn.
“Anh biết rằng em sẽ sống tốt hơn nếu chẳng có anh.”
“Đúng, em có thể như thế đấy.”
“Mà anh cũng hạnh phúc hơn nếu không có em.”
“Đúng chứ.”
Và rồi cuối cùng – cuối cùng – xô đẩy nhau, hành hạ nhau,
chúng tôi lại vỗ tay và cười phá lên, cười vào mặt những kẻ ngốc khờ
kia, tức cũng là chúng tôi. Sự đau khổ của họ, sự nhớ tiếc của họ, khả
năng tự bào chữa cho mình của họ, chúng tôi đã vượt qua những điều ấy,
chúng tôi tuyên bố họ là những kẻ nói dối. Chúng tôi uống rượu vang
trong bữa tối hay quyết định tổ chức những bữa tiệc.
Đã nhiều năm tôi không gặp lại Andrew, không biết anh còn
giữ dáng người thanh mảnh, hay tóc anh đã bạc, vẫn thói quen lúc nào
cũng đòi ăn rau diếp xà lách, thích nói thật, hay vẫn nồng nàn và thất
vọng như xưa.
Chúng tôi qua đêm ở Wenatchee, Washington, nơi nhiều tuần
lễ không mưa. Chúng tôi ăn tối trong một nhà hàng dựng bên thân cây –
không phải cây ghép trong chậu mà cây bông gòn mạnh mẽ cao lớn. Sáng sớm
khi mặt trời mọc, chúng tôi lái xe ra khỏi thung lũng có nước tưới, leo
lên những ngọn đồi khô cằn, sỏi đá, dốc đứng, mỗi ngày một thêm nhiều
đồi cho đến khi tới một cao nguyên rộng xuyên qua bởi sông Spokane và
sông Columbia. Trung du và thảo nguyên, dặm đường này đến dặm đường kia.
Rồi có những con đường thẳng tắp, những thị trấn nông trại nhỏ, những
kho tồn trữ lúa mì. Một cái bảng trên đường ghi rõ vùng chúng tôi đi
vào, hạt Douglas, là nơi sản xuất lúa mì lớn thứ hai ở Mỹ. Có những thị
trấn trồng nhiều cây xanh bóng mát. Hoặc ít ra tôi nghĩ chúng được
trồng, bởi vì không thấy những cây lớn như thế ở vùng quê lân cận.
Tất cả khung cảnh ấy chào đón tôi một cách huy hoàng. “Vì
sao em yêu chúng đến vậy?” Tôi bảo Andrew. “Chẳng phải vì nó hấp dẫn
hay sao?”
“Vì nó gợi nhớ tới quê nhà của em,” Andrew nói. “Một nỗi hoài hương khẩn trương bi thiết.”
Nhưng anh nói thế với giọng tử tế.
Khi nói đến chữ “quê nhà” và ám chỉ Ontario, hai chúng
tôi nghĩ đến những vùng khác nhau. Cố thổ của tôi là một nông trại nuôi
gà tây, nơi cha tôi sống như người đàn ông góa vợ, và mặc dù đó là ngôi
nhà mẹ tôi hằng sống, bà đã từng dán giấy lên tường, sơn phết dọn dẹp,
sắp đặt bàn ghế, vẫn thấy rõ dấu hiệu của điêu tàn, của cuộc sống bắt
đầu hoang dại. Một đời sống tiếp tục kiểu mà mẹ tôi không thể đoán trước
hay tha thứ. Có những buổi tiệc của những người thợ làm gà tây, thợ
máng nước, thợ nhổ lông gà, đôi khi có một hai chàng trẻ tuổi sống tạm
vài ngày như quán trọ, rủ rê bạn bè tới tiệc tùng vui nhộn. Đời sống ấy,
tôi nghĩ tốt hơn nhiều cho cha tôi so với cuộc sống cô đơn lặng lẽ, mà
tôi cũng không bài bác và chẳng có quyền gì để phê phán. Andrew hoàn
toàn không thích tới đó, cũng dễ hiểu thôi, bởi vì anh không phải loại
người có thể ngồi lòng vòng quanh bàn bếp với những người thợ làm gà, kể
chuyện chọc cười vui vẻ. Những người thợ ngượng ngùng khi có mặt anh,
cảm thấy như bị coi thường, và đối với tôi thì cha tôi, những khi họ ở
đó, cần đứng về phía họ. Và không chỉ Andrew là bực bội. Tôi chịu được
chuyện pha trò của đám thợ, nhưng cũng phải cố gắng lắm.
Tôi ước những ngày nhỏ dại, trước khi gia đình có trại gà
tây. Trước đó chúng tôi nuôi bò sữa và bán sữa cho hãng phô-mát. Trại
gà không thể nào sánh được với trại nuôi bò hay nuôi cừu. Bạn có thể
thấy những con gà tây nằm trên một băng dài nối tới những thùng đông
lạnh và thịt chuẩn bị ăn được. Chúng không có vẻ giả tạo của đời sống
thanh bình trong trại gia súc, những con lợn trong vườn cây râm mát.
Chuồng gà là một dãy nhà dài, tiện lợi, làm bằng tôn. Không có những cái
túi hay cỏ hay chuồng. Ngay mùi phân gà tuy loãng hơn nhưng lại khó
chịu hơn phân bò. Không có một hình ảnh nào về cuộn cỏ, hàng rào hay
chim chóc ca hát hay bụi mận gai trổ bông. Những con gà tây để đầy trên
mặt đất nhưng chúng đã được rửa sạch. Chúng trông không giống những con
chim lớn mà giống một thứ đồ đem giặt biết đập cánh.
Một lần nọ, ít lâu sau khi mẹ tôi qua đời và khi tôi đã
lập gia đình – thực tế là tôi đã gói đồ đạc chuẩn bị về ở với Andrew ở
Vancouver – tôi ở lại nhà vài ngày với cha tôi. Trời mưa lớn khác thường
suốt đêm. Sáng sớm, trại nuôi gà ngập lụt. Ít nhất là những chỗ thấp bị
ngập nước – trông như cái hồ với những hòn đảo nhỏ. Những con gà đứng
xúm xít lại trên các hòn đảo ấy. Gà tây là thứ rất ngốc. Cha tôi vẫn
nói, “Con có biết gà không? Có biết chúng xuẩn ngốc cỡ nào chưa? Vậy mà
gà vẫn còn là Einstein nếu đem so với bọn gà tây này.” Nhưng chúng vẫn
biết tụ lại trên cao để tránh chết trôi. Bây giờ chúng xô đẩy nhau đến
ngạt thở, run lạnh và chết. Không thể chờ nước rút. Chúng tôi kiếm chiếc
xuồng cũ, tôi chèo còn cha tôi nắm những con gà lôi chúng lên xuồng,
mang chúng vào trại gia súc. Trời vẫn còn mưa lai rai. Công việc thật
vất vả, nhàm chán và khó chịu. Chúng tôi cười phá lên. Tôi cảm thấy hạnh
phúc có dịp làm việc với cha tôi. Tôi cảm thấy gần gũi với thứ công
việc nặng nhọc, lập đi lập lại, kinh khủng, khi thân xác bạn rã rời, trí
óc chìm nghỉm (dù đôi khi tinh thần khinh khoái), và lòng tôi chưa chi
đã nảy sinh mối hoài niệm lạ lùng về nơi chốn đây, cuộc sống này, trong
những ngày sắp tới. Tôi nghĩ là nếu Andrew nhìn thấy tôi trong hoàn cảnh
như thế, trong mưa, lòng bàn tay đỏ ửng lên, người đầy bùn, vừa cố nắm
chặt chân gà vừa chèo thuyền, chắc anh chỉ muốn lôi tôi ra khỏi chỗ này
và làm tôi quên bẵng đi mọi việc ở đây. Cuộc sống thô sơ như nhiên này
làm anh tức giận. Sự gắn bó của tôi với nó càng làm anh giận dữ. Tôi
nghĩ lẽ ra tôi không nên lấy anh. Nhưng lấy ai bây giờ? Một trong những
người thợ làm gà tây chăng?
Và tôi cũng không muốn ở đây lâu. Có lẽ tôi sẽ buồn khi bỏ đi, nhưng còn tệ hơn nếu có ai đó khiến tôi phải ở lại.
Mẹ của Andrew sống ở Toronto trong một căn hộ chung cư
nhìn ra công viên Muir. Khi Andrew và người chị của anh còn ở nhà, mẹ họ
ngủ ngoài phòng khách. Chồng của bà, một bác sĩ, qua đời khi những đứa
trẻ còn nhỏ dại chưa đến tuổi tới trường. Bà học một khóa huấn luyện thư
ký và bán căn nhà của mình với giá rẻ mạt, dọn vào cư xá, nuôi dạy con
cái tươm tất, với sự giúp đỡ của vài người thân – người chị của bà tên
Caroline, người anh rể tên Roger. Andrew và chị đi học trường tư và đi
cắm trại mùa hè.
“Thế mà em cứ tưởng là nhờ quỹ tương tế xã hội kia chứ?”
Có lần tôi bảo thế, chế nhạo anh về việc anh tự cho mình là một người
nghèo. Trong trí tôi, đời sống thành thị của Andrew an toàn quá mức, cầu
kỳ kiểu cách. Mẹ của anh về nhà ôm lấy đầu sau một ngày làm việc đầy
tiếng động, ánh sáng chói chang của văn phòng tiệm tạp hóa, nhưng đối
với tôi đời sống của bà không có gì khó khăn hay đáng thán phục. Tôi
không nghĩ bản thân bà tin rằng mình là một người đáng thán phục – chỉ
là không may mắn. Bà lo lắng về công việc của mình ở văn phòng, quần áo,
việc bếp núc, con cái. Bà lo âu gần như về tất cả những gì mà Roger và
Caroline có thể để mắt tới.
Caroline và Roger sống ở phía đông của công viên, trong
một ngôi nhà đá đẹp tuyệt. Roger cao, hói đầu, da mặt tàn nhang, có cái
bụng lớn nhưng rắn chắc. Cuộc giải phẫu ở vùng họng làm ông nói giọng
khó nghe – như tiếng thì thào thô ráp. Nhưng ai cũng chú ý nghe cả. Có
lần trong bữa ăn tối ở ngôi nhà bằng đá kia – tất cả những bàn ghế đồ
đạc trong phòng ăn đều lớn, màu tối lộng lẫy, nguy nga – tôi hỏi anh một
câu. Tôi nghĩ là có liên quan đến Whittakers Chambers, câu chuyện của
ông ta xuất hiện trên báo Bưu Điện Chiều Thứ Bảy.
Tôi hỏi nhẹ nhàng thôi nhưng anh nghĩ là có dụng ý khiêu khích và gọi
tôi là bà Gromyko, ý muốn nói người mà tôi cùng chia sẻ quan điểm. Có
thể anh cần một đối thủ nhưng chẳng tìm thấy ai. Trong bữa ăn tối, tôi
nhìn thấy tay của Andrew run lên khi anh bật lửa châm thuốc cho mẹ anh.
Dượng Roger trả tiền cho việc học hành cho Andrew, và có chân trong ban
giám đốc của một số công ty.
“Dượng ấy chỉ là một người có quan niệm ương bướng,” sau này Andrew bảo tôi. “Làm gì mà em cứ phải tranh cãi với ông?”
Trước khi chúng tôi rời Vancouver, mẹ của Andrew viết thư, Roger có vẻ tò mò về ý định của con muốn mua một cái xe hơi loại nhỏ!
Dấu chấm than của bà diễn tả lo ngại. Vào thời đó, đặc biệt là ở
Ontario, việc mua một chiếc xe hơi nhỏ kiểu châu Âu thay vì xe Mỹ cỡ bự
trông như là một bản tuyên bố – một tuyên bố về lập trường mà Roger đánh
hơi được từ lâu.
“Nhưng xe này không thuộc loại xe nhỏ,” Andrew nói bực bội.
“Đó không phải là điểm chính,” tôi bảo anh. “Điểm chính là, mắc mớ chi tới dượng ấy!”
Chúng tôi qua đêm thứ hai ở Missoula. Người ta bảo chúng
tôi trong một trạm đổ xăng ở Spokane, là có chỗ sửa chữa xe cộ phụ tùng
dọc theo tuyến đường cao tốc số 2 và chúng tôi đã lái qua những dặm
đường nóng nực đầy bụi bặm, những thời gian chờ đợi rất dài, vì vậy
chúng tôi rẽ về xa lộ liên tỉnh, băng qua Coeur d’Alene và Kellogg để
vào Montana. Qua khỏi Missoula chúng tôi hướng lên phía nam về phía
Butte, nhưng rồi vòng lại để thăm Helena, thủ phủ của tiểu bang Montana.
Trên xe hơi chúng tôi chơi trò Tôi Là Ai?
Cynthia đóng vai một người Mỹ, một người đã chết, và có
thể là bé gái. Có thể một phụ nữ. Cô ấy không có mặt trong câu chuyện.
Cô không hề xuất hiện trên tivi. Cynthia cũng không đọc gì về cô ta
trong sách. Cô không phải là người đã từng tới thăm lớp mẫu giáo hay bà
con gì của bạn bè của Cynthia.
“Cô ta có phải là người không?” Andrew hỏi một cách tinh ý đột ngột.
“Không! Đó là thứ mọi người quên hỏi!”
“Một con vật,” Tôi nói sau khi đã suy nghĩ.
“Có phải đó là một câu hỏi không? Có mười sáu câu hỏi!”
“Không, đó không phải là một câu hỏi. Mẹ đang suy nghĩ. Một con vật đã chết.”
“Đó là con nai,” Meg nói, nhưng nó không phải là người chơi.
“Không công bằng!” Cynthia nói. “Meg không chơi.”
“Con nai nào?” Andrew nói.
Tôi bảo, “Ngày hôm qua”
“Ngày hôm trước,” Cynthia nói. “Meg không chơi. Không ai đoán được.”
“Con nai trên xe tải,” Andrew bảo.
“Đó là một con nai cái, vì nó không có gạc, và đó là một con nai Mỹ, và nó đã chết rồi,” Cynthia bảo.
Andrew nói, “Cha nghĩ đó là ý tưởng bệnh hoạn, đóng vai một con nai chết.”
“Con hiểu rồi,” Meg nói.
Cynthia bảo, “Con nghĩ con biết bệnh hoạn nghĩa là gì. Đó là một thứ sầu muộn.”
Helena, một thị trấn khai mỏ bạc cũ, trông hoang vắng
ngay trong ánh nắng bình minh. Rồi đến Bozeman và Billings, không tiêu
điều chút nào –sống động mạnh mẽ với nhiều dặm dài lóng lánh kim tuyến
của bãi bán xe hơi cũ. Chúng tôi mệt lử và cảm thấy nóng ngay cả khi
chơi trò Tôi Là Ai? Những thành phố bận rộn và tẻ nhạt nhắc tôi nhớ tới
những địa điểm khác ở Ontario, và tôi sực nghĩ, điều gì thực ra đang chờ
đợi mình ở đó – những đồ đạc bia đá trong phòng ăn của dì dượng
Caroline và Roger, những bữa ăn tối khiến tôi phải ủi những bộ trang
phục của trẻ con, nhắc chúng về những cái nĩa và một cái bàn ăn khác một
trăm dặm xa, những trêu đùa chọc ghẹo của đám thợ làm gà tây của cha
tôi. Niềm vui thú tôi hằng nghĩ tới – thả mắt nhìn ra xa vùng quê êm ả
hay uống một chai Coke trong tiệm tạp hoá cũ với những cây quạt trần và
mái tôn cao – đã bị những thứ ấy giựt phăng mất.
“Meg buồn ngủ,” Cynthia nói. “Nó nóng quá. Làm con ngồi gần cũng nóng lây.”
“Mẹ hy vọng là nó không bị sốt,” tôi bảo, không ngoảnh lại.
Chúng tôi làm những chuyện này vì cái gì, tôi nghĩ thầm,
và câu trả lời đến ngay – để khoe thôi. Để cho mẹ của Andrew và cha tôi
niềm vui gặp cháu của họ. Đó là bổn phận. Nhưng đằng sau cái đó chúng
tôi còn muốn khoe một điều gì khác nữa. Thực là những đứa trẻ hăm hở
biết bao, tôi và Andrew, những kẻ lúc nào cũng đi tìm sự tán đồng ở
người khác. Như thể vào một lúc nào đó ở một điểm nào đó chúng tôi đã
nhận được những thông điệp khó nuốt không thể nào quên – rằng chúng tôi
đã đi quá xa, và rằng sự thành công thông thường trong đời đã ở sau lưng
chúng tôi quá lâu. Dượng Roger đã phát đi những thông điệp ấy, tất
nhiên theo cách của ông – nhưng mẹ của Andrew, mẹ tôi và cha tôi, cũng
không ai khác biết cách phát đi thông điệp. Tất cả họ đều muốn nói với
chúng tôi rằng “ Cẩn thận đấy, phải hoà hợp với mọi người thôi.” Cha tôi
khi tôi còn ở trung học đã từng chế nhạo rằng tôi nghĩ mình quá thông
minh nên chắc không bao giờ có một đứa bạn trai. Rồi ông quên bẵng điều
ông nói trong một tuần, nhưng tôi thì không bao giờ quên. Andrew và tôi
không quên điều gì cả. Chúng tôi dễ bị tổn thương.
“Con ước có một bãi biển,” Cynthia nói.
“Có lẽ có một cái,” Andrew bảo. “Ngay phía sau đường lượn vòng.”
“Không có đường vòng nào cả,” Cynthia bảo, giống như tức tối.
“Mẹ cũng muốn nói thế đấy.”
“Con ước gì có một ly chanh đường.”
“Mẹ thì muốn có cây đũa thần và biến phép một ly chanh
đường,” tôi nói. “Được thôi, Cynthia? Hay là một ly nước nho vắt? Rồi mẹ
hoá phép một bãi biển ở đó nữa”
Cynthia im lặng và tôi cảm thấy hối hận ngay. “Có thể
trong thị trấn trước mặt sẽ có một bể bơi,” tôi nói. Tôi nhìn bản đồ. “Ở
thị trấn Miles City. Dù sao chúng ta sẽ có một thứ gì đó mát để uống.”
“Xa hay gần hả em?” Andrew hỏi.
“Không xa lắm đâu,” tôi nói, “Ba mươi dặm, cỡ đó.”
“Ở thị trấn Miles City,” Cynthia nói, giọng trầm xuống
như đang niệm chú, “sẽ có một bể bơi xanh ngắt đẹp tuyệt dành cho trẻ
con và một công viên cây cối mơ màng.”
Andrew bảo tôi, “Em có thể bắt đầu vài thứ em thích.”
Nhưng quả thật có một bể bơi. Một công viên nữa, mặc dù
nó không giống ốc đảo trong mơ của Cynthia. Những cây cối thảo nguyên có
lá mỏng – cây bông gòn và cây dương – cỏ uá, và hàng rào thép bao quanh
bể tắm. Bên trong hàng rào ấy, một bức tường chưa xây xong gồm những
tấm xi măng ghép. Không có tiếng cười đùa, tiếng giỡn nước; xuyên qua
lối vào tôi nhìn thấy tấm bảng ghi bể bơi tạm đóng cửa từ mười hai giờ
trưa đến hai giờ chiều. Lúc đó là mười hai giờ hai mươi lăm phút.
Nhưng tôi vẫn gọi, “Có ai đó không?” tôi nghĩ có người
quanh đây, vì một chiếc xe tải nhỏ đỗ trên lối vào. Trên thành xe có tấm
bảng ghi: Chúng tôi có mưu lược để sửa chữa ống nước. (Chúng tôi cũng có dịch vụ hút cầu Roto-Rooter).
Một cô gái chạy ra, mặc áo cứu hộ màu đỏ bên ngoài bộ đồ tắm. “Xin lỗi, chúng tôi đóng cửa.”
“Chúng tôi vừa lái xe ngang qua,” tôi nói.
“Chúng tôi đóng cửa mỗi ngày từ mười hai giờ trưa đến hai giờ chiều. Trên bảng có ghi rõ.” Cô ta đang ăn bánh mì xăng uých.
“Tôi có thấy tấm bảng,” tôi nói. “Nhưng đây là nơi đầu
tiên có nước tắm rửa sau nhiều ngày đường, mà các cháu thì nóng nực quá
sức, và tôi mong chúng có thể nhảy ùm xuống nước một lát– chỉ năm phút
thôi mà. Chúng tôi sẽ canh chừng chúng.'
Mộ cậu trai trẻ xuất hiện sau lưng cô gái. Chàng trai mang quần jeans và áo thun in hàng chữ Roto-Rooter.
Tôi định kể chúng tôi đi từ British Columbia đến Ontario
nhưng chợt nhớ đối với nhiều người Mỹ mấy cái địa danh Canada này chẳng
gợi lên điều gì nên thôi.”Chúng tôi lái xe xuyên liên bang,” tôi nói.
“Chúng tôi không có thời giờ để chờ bể bơi mở cửa. Chỉ hy vọng là các
cháu có cái gì tắm mát một chút.”
Cynthia chạy chân không tới đằng sau tôi.”Mẹ. Mẹ ơi, bộ
đồ tắm của con đâu?” Rồi nó dừng lại, nhận ra tính nghiêm trọng trong
cuộc thương lượng của hai chúng tôi. Meg đang trèo ra khỏi xe hơi – vừa
thức giấc, áo kéo lên đầu, quần tụt xuống bẹn, bày cái bụng hồng hồng.
“Chỉ có hai đứa bé này thôi à?” cô gái hỏi.
“ Chỉ hai cháu này thôi. Chúng tôi sẽ canh chừng chúng ạ.”
“Tôi không thể cho người lớn vào đây. Nếu chỉ có hai đứa,
tôi nghĩ tôi có thể coi được. Tôi đang ăn trưa.” Cô ta hỏi Cynthia, “
Cháu có muốn xuống hồ bơi không?”
“Dạ có ạ,” Cynthia trả lời rõ ràng.
Meg nhìn xuống đất.
“Chỉ một lát thôi, vì hồ bơi đã đóng cửa,” tôi nói.” Chúng tôi thực cám ơn cô lắm lắm,” tôi bảo cô gái.
“Thôi vậy, tôi có thể ăn trưa ngoài ấy, nếu chỉ có hai cô
bé này.” Cô nhìn ra xe chúng tôi như thể bỗng dưng tôi có thể lôi ra
thêm vài đứa trẻ nữa.
Khi tôi tìm ra bộ đồ tắm của Cynthia, nó mang ngay vào
phòng thay đồ. Nó không muốn ai, ngay cả Meg, nhìn thấy nó ở truồng. Tôi
thay đồ cho Meg, nó đứng trên ghế trước trong xe. Nó có bộ đồ tắm bằng
vải hồng với dây buộc và nút cài. Có giải rút ở đũng quần.
“Người cháu nóng lắm,” tôi nói.” Nhưng tôi nghĩ không phải bị sốt đâu.”
Tôi thích giúp Meg mặc hay cởi áo quần, vì cơ thể nó còn
chưa tự ý thức về mình, với tính thờ ơ ngọt ngào, một cái gì như mùi
sữa, của trẻ sơ sinh. Cơ thể của Cynthia thì từ lâu đã được gọt giũa,
tạo hình và thay đổi, để trở thành chính Cynthia. Ai cũng muốn hôn lấy
hôn để, quệt mặt vào người Meg. Đôi khi nó nhăn nhó bực bội, đánh lại
chúng tôi, và tính tự lập quyết liệt, sự ngượng ngùng giận dữ này, càng
làm nó thêm hấp dẫn, khiến người ta cứ muốn ôm nghiến lấy, thọc lét,
kiểu người thân trong nhà.
Andrew và tôi ngồi trong xe hơi, cửa kính hạ xuống. Tôi
nghe được tiếng nhạc vẳng ra từ radio và nghĩ đó là máy của cô gái hay
bạn trai cô ta.Tôi khát quá, ra kỏi xe, tìm một chỗ mát mẻ, hay một cái
máy bán thức uống, đâu đó trong công viên. Tôi mang quần đùi và sau hai
bắp chân ướt lẫm mồ hôi. Tôi thấy một vòi nước uống bên kia công viên và
đi tới đó bằng lối vòng dưới bóng hàng cây. Không có gì là có thật cả
cho đến khi bạn bước ra khỏi xe. Lừ đừ vì nóng, vì mặt trời trên các
ngôi nhà bỏng rộp lửa, hè đường, cỏ cháy, tôi bước đi chậm chạp. Tôi chú
ý đến một chiếc lá bị dẫm nát, bóp vụn một que khuấy cà phê dưới gót
giày, nheo mắt nhìn thùng rác cột vào thân cây. Đó là cách bạn quan sát
những vật hèn mọn nhất bỗng trồi lên bề mặt thế giới, sau khi bạn đã lái
xe đi thật lâu – bạn cảm nhận được tính chất riêng biệt của chúng, nơi
cư ngụ chính xác và nỗi trùng hợp tình cờ đáng thương của việc bạn cũng
có mặt nơi đây để nhìn ngắm chúng.
Những đứa trẻ đâu rồi?
Tôi xoay người lại, bước rất mau, không hẳn là chạy, tới
bên một đoạn hàng rào nơi bức tường bên trong chưa xây xong. Từ đây tôi
có thể nhìn thấy hồ bơi. Tôi thấy Cynthia, đứng ngâm mình trong nước
ngang thắt lưng, vung tay đập nước và chăm chăm nhìn một vật gì phía
cuối hồ bơi, nhưng tôi không thấy được. Căn cứ vào dáng đứng của nó, sự
chăm chú, vẻ mặt, tôi nghĩ nó đang coi mấy trò của cô gái cứu hộ và gã
bồ cô ta. Tôi không thấy Meg. Nhưng tôi nghĩ nó đang chơi ở chỗ nước cạn
– cả hai đầu nước cạn và nước sâu tôi đều không nhìn thấy.
“Cynthia!” Tôi phải gọi hai lần con bé mới nhìn ra chỗ đứng của tôi.”Cynthia! Meg đâu rồi?”
Có vẻ Cynthia, bất cứ khi nào tôi nhớ lại cảnh này, quay
mình duyên dáng về phía tôi, rồi xoay cả người trong nước – làm tôi nghĩ
tới một vũ điệu ba-lê – và dang tay ra như đứng trên sân khấu.
“B-i-ế-n-m-ấ-t!”
Cynthia vốn có tính duyên dáng tự nhiên, mà con bé lại
học múa, vì thế những động tác này có thể đã xảy ra đúng như thế thật.
Nó quả thật có nói “Biến mất!” sau khi đã nhìn quanh mặt hồ một lượt,
nhưng điệu bộ và cách nói giả tạo này, cái kiểu không hề khẩn trương
chi, thì chắc là do sự tưởng tượng thêm của tôi. Nỗi sợ hãi xâm chiếm
lập tức khi không tìm thấy con bé Meg – ngay cả khi tôi tự bảo mình có
lẽ nó đứng phía nước cạn – đã là nguyên cớ khiến những cử chỉ của Cythia
trở nên quá chậm chạp, quá vô lý đối với tôi, và giọng điệu của chữ
“Biến mất” ngay trước khi hàm ý của nó kịp xuất hiện (hay là con bé che
giấu, ngay tức thì, cảm giác tội lỗi của nó?) trở nên một lời nói ích kỷ
không chịu nổi.
Tôi la lớn lên gọi Andrew, và cô gái coi hồ bơi lập tức xuất hiện. Cô chỉ tay về phía vùng nước sâu và nói, “Cái gì kia kìa?”
Ở đó, ngay trước mắt tôi, một nhúm giải rút hồng hồng
phồng lên, trông như một bó hoa, ngay dưới làn nước. Làm sao một nhân
viên cứu nạn lại có thể đứng dừng lại và chỉ tay, sao cô ta lại có thể
hỏi như thế, sao không nhảy ùm xuống nước và bơi về phía ấy? Cô ta không
bơi; mà chạy dọc bờ nước. Nhưng lúc ấy Andrew đã leo lên hàng rào. Bao
nhiêu thứ xảy ra không thể giải thích chút nào – cử chỉ của Cynthia rồi
đến điệu bộ của cô nhân viên cứu nạn – và bây giờ tôi lại có cảm giác
rằng Andrew nhảy phóc một cái đã qua được hàng rào cao bảy bộ. Chắc anh
phải trèo nhanh lắm, túm chặt hàng rào dây thép.
Tôi không thể nhảy hay leo gì cả, tôi chạy về phía lối
vào, ở đó có một cái cổng kiểu mắt cáo, khoá chặt. Cái cổng không cao
lắm, và tôi đu người trèo qua. Tôi chạy dọc theo hành lang xi măng, tới
sát mép nước.
Bi kịch kết thúc.
Andrew nắm được Meg đầu tiên, và kéo nó lên khỏi mặt
nước. Anh chỉ cần vươn tay ra là nắm lấy nó, vì Meg phần nào đang tự
bơi, nhưng đầu đã hụp sâu trong nước – nó lặn ngụp về phía thành hồ tắm.
Anh bồng nó đi, và cô cứu hộ bước nhanh phía sau. Cynthia vừa trèo ra
khỏi nước và chạy về phía họ. Chỉ một người thờ ơ với toàn bộ sự việc là
gã bạn trai của cô nhân viên, cứ ngồi trên ghế dài phía nước cạn, uống
một thứ nước pha sữa. Anh ta còn mỉm cười với tôi, và tôi nghĩ thật kẻ
là vô cảm, mặc dù nguy hiểm đã qua. Cũng có thể anh ta có hảo ý. Tôi để ý
thấy anh ta không tắt radio đi, chỉ vặn nhỏ xuống.
Meg không uống nước đầy bụng. Con bé thậm chí chưa kịp sợ hãi. Tóc dính bết vào đầu và mắt mở to, vàng long lanh.
“ Con muốn xuống lấy cái lược,” nó nói.”Con không biết nước sâu thế.”
Andrew nói,”Meg vẫn tự bơi! Nó bơi mình nó. Anh thấy bộ đồ tắm của con trong nước rồi anh thấy nó bơi”
“Nó sắp chìm nghỉm luôn rồi,” Cynthia nói. “Không phải vậy sao? Meg sắp chết đuối.”
“Tôi không biết mọi chuyện có thể xảy ra như thế.” Cô cứu
hộ nói. “Con bé vừa mới ở chỗ này, chỉ một thoáng đã không còn đó nữa.”
Chuyện xảy ra là Meg đã lên khỏi nước ở phía nước cạn và
chạy dọc theo bể bơi đến đầu kia, chỗ nước sâu. Nó thấy một cái lược
người nào đánh rơi dưới đáy. Nó khom người cúi thật sát để lượm cái lược
lên, tưởng là nước không sâu. Nó chồm người lên nữa và trượt chân xuống
hồ, rơi bõm một cái nhưng không ai nghe được tiếng động – kể cả cô gái
cứu hộ, đang bận hôn anh bồ của mình, hoặc Cynthia đang đứng mãi nhìn
hai người. Đó đúng là lúc khi tôi đứng dưới bóng cây và chợt nghĩ, Bọn
trẻ đang ở đâu vậy? Đó cũng là lúc, Meg trượt chân, lấy làm ngạc nhiên,
xuống làn nước trong xanh dễ đánh lừa người ta.
“Mọi chuyện ổn rồi,” tôi bảo cô nhân viên, lúc ấy gần sắp
khóc. “Con bé bơi rất nhanh.” (Mặc dù thường chúng tôi không nói về Meg
như thế. Chúng tôi nói nó ngẫm nghĩ mọi chuyện trước đã rồi mới thong
thả làm.)
“Em đã bơi, Meg”, Cynthia nói, kiểu như chúc mừng. (Sau này nó kể cho chúng tôi nghe về việc hai người kia hôn nhau.)
“Con không biết là nước sâu thế,” Meg bảo. “Con đã không bị chết đuối.”
Chúng tôi ăn trưa ở một tiệm bán thức ăn mang đi, có bánh
mì kẹp thịt heo hamburger và khoai tây chiên, ngồi quanh một cái bàn
ngoài trời không xa lắm xa lộ cao tốc. Quá vui mừng, tôi quên bẵng mua
cho Meg một cái bánh mì kẹp không mùi, và phải cạo bỏ dưa và mù tạt bằng
muỗng nhựa, rồi lau miếng thịt với tấm giấy chùi miệng, trước khi đưa
cho con bé ăn. Tôi lợi dụng cái thùng rác gần đó để lau chùi xe hơi. Rồi
chúng tôi lại lên đường lái xe về phương Đông, cửa kính xe hơi phía
trước mở hết ra. Cynthia và Meg ngủ thiếp đi trên băng ghế sau.
Andrew và tôi thầm thì trò chuyện về những điều vừa xảy
ra. Giả sử tôi không linh cảm vụt chạy đi tìm những đứa trẻ vào lúc ấy?
Giả sử chúng tôi đi vào thành phố để uống một cái gì, như dự định ban
đầu thì sao? Làm thế nào Andrew có thể nhảy qua hàng rào? Anh ấy trèo
lên hay thực sự đã nhảy qua? (Anh không thể nào nhớ nổi.) Làm cách nào
anh đã chạy tới và chụp lấy Meg nhanh đến thế? Và nghĩ đến chuyện cô
nhân viên cứu hộ không hề nhìn nhỏi gì đến con bé. Rồi Cynthia đứng trân
trân nhìn hai người kia hôn hít nhau. Nó chẳng nhìn thấy gì khác nữa.
Không nhìn thấy Meg rơi khỏi mép nước.
Biến mất.
Nhưng nó còn bơi. Nó nín thở và tiếp tục bơi.
Một chuỗi những biến cố may mắn.
Đó là tất cả những gì chúng tôi trò chuyện – may mắn.
Nhưng tôi không thể ngừng mà không nghĩ đến chuyện tệ hại xảy ra theo
hướng ngược lại. Vào lúc này đây, chúng tôi đã có thể phải ngồi điền
những tờ đơn khai báo. Người ta mang Meg khỏi vòng tay của chúng tôi, cơ
thể nó được quấn lại chuẩn bị chở đi xa. Về lại Vancouver – nơi chúng
tôi chẳng bao giờ lưu ý đến một thứ gì như là nghĩa địa – hay tới
Ontario? Những bức tranh nguệch ngoạc mà Meg vẽ sáng nay chắc vẫn còn
nằm lại trên ghế ngồi của nó sau xe. Làm thế nào tất cả những điều này
có thể chịu đựng được, làm sao con người có thể đương đầu nổi với những
câu chuyện như thế? Đôi vai và hai bàn tay và hai bàn chân ngọt ngào,
tròn trịa, mái tóc nâu óng ả, vẻ mặt hài lòng và bí ẩn – tất cả đều
giống hệt như lúc nó còn sống. Một bi kịch hết sức đời thường. Một đứa
trẻ chết trôi trong một bể bơi vào buổi trưa một ngày mùa hạ sáng lòa.
Mọi việc sẽ thu gọn lại mau chóng. Hồ bơi sẽ mở cửa lại lúc hai giờ
chiều. Cô nhân viện cứu hộ sẽ run rẩy một lúc và xin phép nghỉ việc
chiều hôm đó. Cô sẽ lái xe ra đi cùng với người tình trên chiếc xe tải
nhỏ hút cầu Roto-Rooter. Cái xác của đứa bé sẽ được khâm liệm trong
chiếc quan tài nhỏ để chở đi. Thuốc an thần, những cuộc gọi điện thoại,
những thu xếp này nọ. Sự trống rỗng bỗng nhiên ập tới, nỗi chìm khuất và
dịch chuyển mù tối. Thức giấc choáng váng vì thuốc ngủ và an thần,
trong một lát chợt nghĩ thầm ồ đó là điều không thật. Rồi nghĩ rằng giá
như chúng tôi không dừng lại bên đường, giá như chúng tôi đừng đi con
đường này, giá như họ không cho phép chúng tôi dùng bể bơi. Có lẽ sẽ
không một người nào biết gì về cái lược im lặng nằm dưới đáy hồ kia.
Có một điều gì đó tồi tệ đối với trí tưởng tượng kiểu
này, phải không? Một điều gì như sự xấu hổ. Đặt ngón tay của bạn lên
hàng rào thép gai, nhận một cú sốc điện, biết được cảm giác ấy thế nào,
rồi giựt tay lại. Tôi tin là Andrew còn tỉ mỉ hơn tôi về những điều này,
và vào lúc ấy anh cố tình nghĩ đến việc khác.
Khi đứng tách khỏi cha mẹ tôi trong tang lễ của Steve
Gauley và quan sát họ, tôi đã bắt gặp cảm giác mới mẻ này, không thoải
mái chút nào về họ, tôi nghĩ rằng tôi bắt đầu thấu hiểu một điều gì đó
về cha mẹ, lần đầu tiên trong đời. Một điều gì nghiêm trọng chết người.
Tôi hiểu ra rằng họ có dính líu tới tai nạn này. Thân thể cao lớn, cứng
nhắc, trong y phục nghiêm trang, vẫn không thể nào chắn ngang giữa tôi
và cái chết đột ngột kia, hoặc bất kỳ một cái chết nào khác. Họ đã tán
thành tai nạn ấy. Có vẻ như vậy. Họ đã cho phép cái chết của những đứa
trẻ và cái chết của tôi nữa, xảy ra, không phải bởi lời nói hay hành
động của họ, mà bởi vì chính họ đã sinh ra những đứa trẻ ấy trên đời –
họ đã sinh ra tôi. Họ đã tạo ra tôi, và vì lý do đó cái chết của tôi –
bất kể họ khóc thương thế nào, bất kỳ họ chịu đựng ra sao – đối với họ
cũng đều không phải là thứ không tự nhiên hay không thể xảy ra được. Đó
là một điều có thật, dù ngay lúc ấy tôi cũng biết rằng thật ra họ không
đáng trách.
Nhưng tôi đã trách họ. Tôi đã buộc tội họ về sự trơ tráo,
thói đạo đức giả. Thay mặt cho Steve Gauley, cho tất cả những đứa trẻ
khác, những kẻ biết rằng chúng có quyền vươn thẳng lên tự do, được sống
cuộc đời mới, tuyệt diệu, không bị mắc vào những cái bẫy của người lớn
với đời sống thất bại, tình dục và các tang lễ của họ.
Steve đã chết đuối, người ta bảo thế, bởi vì nó gần như
là một đứa trẻ mồ côi và được phép rong chơi tự do tha hồ. Nếu nó được
nhắc nhở kịp thời, giao cho công kia việc nọ để làm, được giám sát kỹ
càng, nó đã không thể nào tuột tay từ một cành cây mỏng mảnh không đáng
tin cậy chút nào mà rơi xuống ao nước mùa xuân, rơi vào một cái hố đào
sỏi gần bờ sông – nó đã không chết đuối. Nó đã bị bỏ rơi, nó đã được thả
rong tự do, và nó đã chết. Và cha nó vẫn thấy đó là một tai nạn, như
thứ có thể xảy ra cho một con chó. Ông ta không có cả một bồ đồ lễ tử tế
để mặc trong ngày đám tang của con, cũng không cúi đầu khi cầu nguyện.
Nhưng ông ta là người lớn duy nhất mà tôi không thèm trách cứ. Ông ta là
người duy nhất mà tôi không thấy rõ sự tán thành. Ông ta đã không thể
ngăn ngừa một điều gì, nhưng ông ta cũng không dính líu đến tai nạn –
không giống như những người lớn khác trong khi cầu nguyện lời Chúa với
giọng trầm trọng không mấy tự nhiên, làm rỉ ra thứ tín ngưỡng và thứ mất
danh dự đáng hổ thẹn.
Khi tới vùng Glendive, không xa biên giới North Dakota,
chúng tôi có một chọn lựa – hoặc là tiếp tục đi theo xa lộ liên tỉnh,
hoặc là hướng về Đông Bắc, phía Williston, rẽ vào đường số 16, vài đường
khác, và trở lại với xa lộ cao tốc số 2.
Hai chúng tôi đồng ý rằng đường liên tỉnh thì nhanh hơn,
và quan trọng nhất là không nên chạy xe quá nhiều– tức là xài tiền –trên
đường. Cuối cùng chúng tôi quyết định rẽ vào xa lộ số 2.
“Em thích thế hơn,” tôi nói.
Andrew bảo, “Đó là vì chúng ta đã định như thế từ đầu.”
“Chúng ta sẽ không được gặp Kalispell và Havre. Và Wolf Point nữa. Em thích cái tên đó.”
“Chúng ta sẽ gặp chúng trên đường trở về nhà.”
Andrew nói câu “trở về nhà” với một vẻ vui sướng đáng
ngạc nhiên đối với tôi. Tất nhiên tôi hoàn toàn nghĩ rằng chúng tôi sẽ
quay về nhà sau chuyến đi, với chiếc xe của chúng tôi và cuộc đời của
chúng tôi và gia đình của chúng tôi nguyên vẹn, sau đi đã đi qua biết
bao dặm đường, đã trải qua biết bao chuyện trung thành và rắc rối, xích
lại gần nhau hơn, nhìn xuống con đường liều lĩnh của mình. Nhưng vẫn
thật là an ủi khi nghe anh ấy nói thế.
“Điều anh không thể nào hiểu được,” Andrew nói, “là làm
sao em nhận được tín hiệu ấy. Phải là một thứ linh cảm mà chỉ những
người mẹ mới có.”
Phần nào tôi cũng muốn tin thế thật, tự sưởi ấm mình
trong khả năng linh cảm ngoại cảm kia. Phần khác tôi muốn cảnh báo
Andrew – cảnh báo tất cả mọi người – đừng bao giờ dựa dẫm vào những thứ
ấy.
“Điều mà em không hiểu,” tôi nói “là làm sao anh có thể nhảy qua hàng rào.”
“Anh cũng đâu có biết.”
Chúng tôi tiếp tục trò chuyện như thế, với hai đứa trẻ
trên băng ghế sau, đặt hết tin tưởng vào chúng tôi, bởi chúng cũng chẳng
có chọn lựa nào khác, và chúng tôi thì tin rằng mình sẽ được tha thứ,
cùng với thời gian, về tất cả những điều mà trẻ con nhìn thấy và lên án
trước tiên: bất cứ điều gì vô cảm, tùy tiện, bất cẩn, nhẫn tâm – những
lỗi lầm vừa tự nhiên vừa cá biệt của chúng ta.
------------
Dịch từ nguyên tác “Miles City, Montana”, trong Alice Munro, Progress of Love (New York: Alfred A. Knopf, 1986).
Nguồn TIỀN VỆ
Nguồn TIỀN VỆ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét