Hàn Thuỷ
Thơ
tình yêu hay, ở nước nào cũng
nhiều, và mỗi thời mỗi khác.
Hãy cứ xin giới hạn trong thơ Việt
Nam hiện đại, kể từ phong trào
thơ mới, và trong tầm hiểu biết
vừa chủ quan vừa hạn hẹp của tại
hạ, người viết bài này. Đọc
vài câu chắc nhiều người nhớ,
để thấy cái khác của mỗi
thời.
Áo trắng
đơn sơ, mộng trắng trong,
Hôm xưa em đến, mắt như lòng.
Nở bừng ánh sáng. Em đi đến,
Gót ngọc dồn hương, bước tỏa hồng.
Hôm xưa em đến, mắt như lòng.
Nở bừng ánh sáng. Em đi đến,
Gót ngọc dồn hương, bước tỏa hồng.
Huy Cận,
Áo trắng
Yêu là
chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu.
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu.
Xuân Diệu,
Yêu
Thật
ra thơ tình yêu của hai ông hoàng
thơ mới này, không có gì sâu
sắc. Họ nằm trong số những người có đóng góp
rất lớn cho ngôn
ngữ Việt, về cả cấu trúc câu văn
xuôi lẫn bút pháp thơ, kế
thừa ngôn ngữ thơ cổ điển của
dân tộc và tiếp thu cái mới của
thơ Pháp để hình thành một
ngôn ngữ đẹp, từ đó biểu
lộ được những tình cảm tinh
tế... điều này nhiều học giả
đã chỉ ra, ở một bài tản
mạn này không dám nói nhiều.
Nhưng trong tình yêu thì tinh tế chưa
đủ, hình ảnh đẹp bóng bẩy
cũng chưa đủ. Nhiều khi trong thơ
tiền chiến người ta thấy tình yêu
chỉ là cái cớ để nhà
thơ... làm thơ, thí dụ như :
Chưa gặp
em, tôi vẫn nghĩ rằng:
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng,
Mắt xanh lả bóng dừa hoang dại,
Thăm thẳm nhìn tôi, không nói năng.
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng,
Mắt xanh lả bóng dừa hoang dại,
Thăm thẳm nhìn tôi, không nói năng.
Đinh Hùng,
Tự
tình dưới hoa
Chẳng
thà như Nguyễn Bính, rất chân
thật :
Cầm tay anh
khẽ nói:
-Khóc lóc mà làm chi?
Hôn nhau một lần cuối,
Em về đi, anh đi...
-Khóc lóc mà làm chi?
Hôn nhau một lần cuối,
Em về đi, anh đi...
Nguyễn
Bính,
Hôn nhau lần cuối
Nói
sao cho rõ đây ? có lẽ trừ
vài bài ngoại lệ như Hai
sắc hoa ti-gôn ;
còn những bài thơ "tình cảm",
hoặc "nói về tình yêu" của
thời tiền chiến, rất hay, như Tiếng
thu
của Lưu Trọng Lư, Ngậm
ngùi
của Huy Cận, Ngập
ngừng
của Hồ Dzếnh, Vì
sao
của Xuân Diệu... với tại hạ, đó
không phải là thơ
tình yêu,
vì trong đó tình yêu chỉ là
cái cớ, đối tượng yêu chỉ
là cái bóng. Trong nghĩa đó,
văn chương của Trương Quỳnh Như
và Phạm Thái là những tác
phẩm tuyệt vời về tình yêu, từ
hơn hai thế kỷ trước.
Tại
hạ nghĩ là phải đến sau phong trào
thơ mới, thơ tình yêu Việt Nam mới
có nhiều bài hay. Hãy ghi nhận trong
thời kháng chiến những bài thơ
như Màu
tím hoa sim...
thời chiến, không có thì giờ tô
điểm, lời thơ như lời kể
chuyện, mà làm ta đau nhói :
Từ chiến
khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
(…)
Màu tím
hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
tím chiều hoang biền biệt
Hữu Loan,
Màu
tím hoa sim
Đến
đây có lẽ không còn cần
thú nhận nữa: một bài thơ tình
hay, theo chủ quan của tại hạ, là một
bài thơ về mối tình (có thể
đơn phương, nhưng) liên quan đến
hai
con người,
toát ra tình yêu chân thành, không
lý luận, không lạm dụng những ẩn
dụ, những hoa hoè bóng bảy... Thơ
hay là những câu làm người ta tê
tái như tím chiều hoang
biền biệt,
hay "hết hồn" luôn, như :
Lần đầu
ta ghé môi hôn
Những con ve nhỏ hết hồn kêu vang
Những con ve nhỏ hết hồn kêu vang
Trần Dạ
Từ, Nụ
hôn đầu
*
Ô
hay ! tại hạ đang định tán về
một bài thơ buồn mà. Vậy xin trở
lại chủ đề, nhưng để bắt
đầu mời bạn nghe Khánh Ly hát đã
:
Bài
hát này do Trịnh Công Sơn phổ
thơ Trịnh Cung (1958), gần như giữ nguyên
văn, trừ câu kết (và thêm cái
coda
tuyệt vời, nhưng điều ấy chỉ
thuộc về bản nhạc), theo lời
Đinh Cường:
...Sơn đã
phổ nhạc bài thơ 4 chữ "Cuối
Cùng Cho Một Tình Yêu" của Trịnh
Cung,
và sửa câu cuối. "Lời ca anh nhỏ, nỗi buồn hôm nay" thành "nỗi lòng anh đây"...
và sửa câu cuối. "Lời ca anh nhỏ, nỗi buồn hôm nay" thành "nỗi lòng anh đây"...
Từ đây
xin quên bản nhạc để chỉ nói
về bài thơ dưới đây, với câu cuối đã
được Trịnh Công Sơn sửa đổi,
bởi công chúng đã biết như
thế và chắc Trịnh Cung đã chấp
nhận, vả lại, bạn bè đề
nghị đổi một hai chữ là chuyện
tự nhiên.
Ừ thôi em về
Chiều mưa giông tới Bây giờ anh vui Hai bàn tay đói Bây giờ anh vui Hai bàn chân mỏi |
Thời
gian nơi đây
Bây giờ anh vui Một linh hồn rỗi Tình yêu xứ này |
Một lần yêu thương
Một đời bão nổi Giã từ, giã từ Chiều mưa giông tới Em ơi em ơi |
Sầu thôi xuống đầy
Làm sao em nhớ Mưa ngoài sông bay Lời ca anh nhỏ Nỗi lòng anh đây |
Ừ
thôi em về,
câu mở đầu là một lời từ
biệt quá đỗi bình thường
giữa hai người có tình cảm thân
thiết với nhau ; câu hai cũng bình
thường như thế, tại sao phải về ?
đơn giản là vì trời sắp mưa
giông, Chiều
mưa giông tới
chỉ khác ngôn ngữ nói chút
xíu, cô đọng cho hợp với khổ
thơ. Hai câu thơ giản dị, mà bài thơ độc
đáo chính ở sự khởi đầu
giản dị đó. Tuy vậy, độc đáo
không chắc đã hay ! ở đây
cái hay của nó chỉ ngấm dần khi
người ta đọc toàn bài với
những câu thơ kỳ lạ khác, rồi
đọc lại lần nữa... bài thơ
này không thể chỉ đọc một
lần.
Tại
sao ? bài thơ gần như dựa trên một
thi pháp duy nhất, sự tỉnh lược
(ellipse) ;
thi pháp này có thể nói là
phổ quát trong thi ca từ Đông sang Tây,
từ cổ đến kim. Có hai mức độ
tỉnh lược; ở mức thứ nhất nó
cho phép bỏ bớt các từ đưa
đẩy, miễn là ý đã rõ,
đó là sự tỉnh lược văn
phạm; ở mức thứ hai, sự tỉnh lược
ý tưởng, thì ngay cả các ý
tưởng liên hệ giữa các mệnh
đề cũng có thể không cần
viết ra, khi văn cảnh cho phép hiểu
ngầm. Mà văn cảnh là cái không
khí toát ra từ toàn bài, cho nên
một bài thơ như bài thơ này,
dùng cả hai loại tỉnh lược ở
mức rất cao, thì không thể đọc
nó một cách tuyến tính.
Loại
thơ như thế đưa cảm nhận chủ
quan của người thưởng thức ngày
càng sâu hơn, một khi đồng cảm
với tác giả. Bạn đã nghe bài
thơ một lần rồi, qua một người
phổ nhạc bạn thân của thi sĩ, và
qua một giọng ca truyền cảm tinh tế,
vậy xin trở lại từ chỗ bắt đầu
bài thơ, khung cảnh thời gian và không
gian của nó.
Bên
bờ sông Hương xứ Huế, cuối
những năm 50, người con gái và
người con trai ngồi bên nhau. Họ vẫn
yêu nhau nhưng phải nói với nhau lời
chia tay lần cuối, trời sắp mưa giông
và đã đến lúc người
con gái phải về nhà.
Thời
tiền chiến, sự giao thoa văn hoá Việt
Pháp đã thúc đẩy một phần
nào trong thanh niên tinh thần tự do luyến
ái theo văn minh tây phương. Đã
cho con gái đi học đến tú tài
hay đại học, thì cấm cửa là
không thể. Tuy vậy, từ truyền thống
văn hoá, gia đình, xã hội, đến
bản thân người thanh niên, đều
chỉ chấp nhận một mức độ tự
do có giới hạn; có thể gặp, có
thể yêu ngoài môn đăng hộ
đối (và nếu gia đình biết
chuyện thì cuộc sống của người
con gái không hề dễ dàng), nhưng
thường dừng ở mức thuần khiết
(platonique)
trước khi người con gái đi lấy
chồng. Khi ấy nảy ra bi kịch phải từ
tạ nhau tuy vẫn yêu nhau. Không đổ
vỡ, không giận dữ, không hy sinh cao cả
như khi người con trai ra trận... nhưng
vẫn phải chấp nhận tình yêu tan
đắm. Dĩ nhiên đây chỉ là
nói chung, không mối tình cụ thể
nào không có những nét riêng.
Tới
thời điểm của bài thơ, có
lẽ tình cảnh "tiền chiến"
nói trên chỉ còn xẩy ra trong xứ Huế.
Miền Nam là vùng khẩn hoang, từ lâu
đã thoáng hơn nhiều ; và Hà
Nội sau 54 đã nằm trong một không
khí khác hẳn rồi.
Khung
cảnh xã hội và tâm thức ấy
soi sáng bài thơ, và giải thích
tại sao sự tỉnh lược của tác
giả lại tự nhiên không giả tạo.
Không có nó bài thơ trở nên
rất khó hiểu, tình cảm của
người trong cuộc dễ bị hiểu sai,
hoặc bài thơ bị tưởng rằng
gồm những lời siêu thực, hiểu sao
cũng được.
Đó
là lời của người con trai sau khi người
yêu nói lời từ tạ cuối, trong
lòng rất đau, chỉ thốt ra được
những cảm tình mãnh liệt nhất,
những điều khác đã chìm
sâu để chi phối lời thơ một
cách vô thức.
Tại hạ
không dám đi sâu vào nhạc
điệu của bài thơ vì sợ
không tách ra khỏi nhạc của Trịnh
Công Sơn được ; nhưng quả
tình, như anh Đặng Tiến cho biết,
có nhiều điều đáng nói.
Đại đa số các câu trong bài
thơ có toàn chữ với âm bằng,
trừ chữ vần thì lại trắc (thí
dụ 8 câu đầu), và
dùng toàn vần thông (âm không
giống nhau hoàn toàn :
tới/đói/mỏi/rỗi/nổi...) ;
như một cái gì nhói lên rồi
lại nhói lên, nhói lên nữa,
trên cái nền trầm buồn của tâm
tình. Thơ hay vì thế, rất cô
đọng mà truyền cảm, vì nội
dung cùng nhạc điệu đều toát
ra tâm trạng, và khi cảm thông được
với tâm trạng tác giả, ta không
còn thấy đâu là sự tỉnh
lược nữa.
Ừ,
thôi em về (để ý dấu phảy
ngầm trong diễn tả của Khánh Ly), ' Ừ
' bây giờ là sự chấp nhận
trong đau đớn, ' thôi ' hằn lên
ý nghĩa của sự gián đoạn
thời gian, và ' thôi ' còn là tự
ý buông rời. Quá khứ có nhau,
tương lai thôi không có nhau. Và
câu tiếp theo, chiều mưa giông tới,
không đơn giản chỉ là một lý
do thời tiết, nó còn là một ẩn
dụ.
Đau
như vậy, mà sao nói bây
giờ anh vui ?
Đó chỉ là lời nói dối để
xoa dịu người yêu. Người yêu,
sau khi nói ra quyết định phải chia
tay, sợ người con trai quá buồn. Vì
vậy phải trả lời như thế ;
trả lời như thế, nhưng lại nói
tiếp theo (riêng cho mình ?) hai
bàn tay đói.
' Đói '
là sao ? là từ đây đôi tay
anh vẫn rất thèm, nhưng không còn
được cầm tay em hay ôm vai em nữa –
lúc đầu tại hạ dịch là mes
mains avides,
cám ơn Đỗ Tuyết Khanh đã
tặng cho chữ orphelines,
quá hay. Lại tiếp tục phủ nhận
bây
giờ anh vui,
và lại tiếp tục phủ nhận cái
phủ nhận ấy : hai
bàn chân mỏi ;
đúng thế, khi tâm tình rung động
mãnh liệt thì người ta tự nhiên
có cảm tưởng mệt mỏi rã
rời. Phủ nhận của phủ nhận, trong
tiếng Pháp có chữ ' si '
đầu câu, rất thích hợp.
Ở
đoạn hai tác giả mới thực sự
tìm cách tự an ủi mình. Vì
sống ở đây và lúc này nên
không sao, dù tan nát nhưng linh hồn
sẽ được cứu rỗi bởi tình
yêu xứ Huế hay/và tình yêu của
xứ Huế !
Tự
an ủi được như thế nên trong
đoạn ba, mặc dù bi thiết, tác
giả đã có bước lùi xa hơn để nhìn nhận chung về cuộc tình và
nói ra được lời từ
giã. Một
lần yêu thương / một đời bão
nổi,
tám chữ, mô tả một tình yêu
đầy giông tố, không đổ
vỡ mà không thành, của thanh niên
nam nữ một nơi, một thời.
Câu
đầu của đoạn cuối Sầu
thôi xuống đầy...
thật là... thần sầu. Chỉ cảm
được mà khó lòng diễn tả,
đừng nói đến dịch được
cho hết ý ; không đơn giản là một ghi nhận khẳng
định ! nó gợi nhớ câu thơ
Kiều, Sầu
đong càng lắc càng đầy, chữ ' thôi '
này vừa van xin vừa kháng cự : "Hỡi
nỗi sầu, hãy thôi rơi xuống như
mưa rơi ngoài kia, để thôi lấp
đầy tâm hồn ta, tâm hồn người
yêu, và thôi lấp đầy không
gian".
Để người yêu vừa chia tay sẽ
nhớ tâm tình của ta, ở đây,
hôm nay, với cơn mưa này. Để
tâm tình nàng thấm sâu một lời
ca nhỏ.
Nhạc điệu cuối cùng chuyển thoát khỏi
các đoạn trước, nó trở nên
miên man nhờ ở ba vần bằng đầy/bay/đây
lặng lẽ trồi lên khoả lấp cái nhói đau của hai vần trắc nhớ/nhỏ. Không biết
bạn có để ý ? đây cũng là vần của đoạn thơ về linh hồn được
cứu rỗi.
Sẽ
không còn gặp nhau ngoài đời,
nhưng vẫn miên man hy vọng gặp nhau trong tâm
tưởng.
Thơ
hay tự
nó
không có tính phi thời gian ; nó trở
thành
phi thời gian, chính vì nó là một
tuyệt cú đại diện cho một khoảng
thời-không nhất định, trước
không có, sau cũng không.
*
Dưới
đây là bản dịch tiếng Pháp,
hy vọng qua đó nói rõ được
hơn với bạn đọc quen tiếng Pháp
cảm nhận của người dịch về
bài thơ, tuy rằng làm việc này
đúng là hơi liều. Tại hạ đã
cố sử dụng phong cách tỉnh lược
của tác giả, nhưng tiếng Pháp dù
sao cũng cần tuân theo logic chặt chẽ
của nó ; cho nên vẫn bớt mông
lung.
Xin
cám ơn anh Đặng Tiến, các bạn
Mai Ninh và Phan Huy Đường, đã góp
ý ; và nhất là cám ơn Đỗ
Tuyết Khanh, đã nhiều lần chỉnh
lý tiếng Pháp, cả về từ ngữ,
văn phạm và phong cách của mấy
phiên bản khác nhau mà người
dịch đề nghị.
Cuối
cùng
|
Dernières
paroles
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét