Con người sinh ra tự do nhưng ở đâu cũng có xiềng xích. J.J. ROUSSEAU.

12 thg 6, 2022

Mảnh Đạn

 

Tiểu thuyết ít chữ của Kiều Giang
[Tiếp theo và hết]
6. Thu Sương lần theo thư mục “Thơ văn trong nước” trên giá sách của thư viện phố núi, nàng dừng lại “mục thơ” và rút ra một quyển. Tựa tập thơ “Dấu chân trên sa mạc”. Thấy tựa lạ, cô liếc nhanh tác giả, Nguyễn Ngọc Huy. Cô hơi sững: “chẳng lẽ trùng tên?”. Cô lật sang bìa 2, hình và sơ lược tiểu sử tác giả. “Ôi, đúng rồi, anh còn sống! Bây giờ là một nhà thơ”. Cô áp đôi bàn tay cùng tập thơ lên ngực, mặt ngước lên trời, như người ta đang cầu nguyện. Phút giây kỳ diệu lướt qua cuộc đời . “Người về từ cõi mộng trăm năm”, một chút mật ngọt chảy qua tâm trí nàng. Thu Sương cố tìm nơi đang ở của Huy, nhưng chỉ biết địa chỉ của nhà xuất bản. Cô ra về, trong lòng ngổn ngang những nỗi đời. “Rồi ta cũng sẽ tìm ra…”, cô nhẩm trong đầu.
Từ đó, đêm nào, sau giờ đóng cửa quán, Thu Sương cũng nằm say mê nuốt từng lời thơ của Huy.Thắng đi nhậu về với điệu bộ chệnh choạng, say mèm, nôn ói và lảm nhảm. Cô bất đắc dĩ phải dụ cho anh uống những viên thuốc an thần. Cuộc sống của nàng bắt đầu lơ lửng, gầy guộc, nhức nhối, giữa địa ngục của hơi men và thiên đường của những bài thơ tình cháy tim cháy ruột.
Sau từng đêm vật lộn với rượu và thuốc ngủ, sáng nào thức dậy ông Thắng cũng ôm đầu vật vã trong cơn đau. Lần hội chẩn đầu tiên, bệnh viện cho biết ông bị hai mảnh đạn trong đầu kết hợp với rượu đã gây nên những cơn đau ác tính, nếu phẩu thuật thì tỉ lệ thành công là rất thấp, bệnh nhân khó giữ được mạng sống hoặc phải nằm liệt suốt đời. Giải pháp tối ưu là bệnh nhân phải bỏ rượu và dùng thuốc an thần. Mỗi lần ông Thắng lên cơn, Thu Sương rất hãi hùng, nhưng nàng không dám quyết định có nên giải phẩu hay không. Nàng chỉ biết van xin chồng đừng uống rượu nữa. Nhưng thật vô ích, con ma men đã mỉm cười khinh bạc, chế giễu nàng.
Kể từ khi ông Thắng phát hiện Thu Sương say sưa đọc tập thơ “Dấu chân trên sa mạc”, ông đã tìm ra người yêu của nàng từ tuổi học trò là Huy, bây giờ là nhà thơ đang còn sống và khá nổi tiếng, có nhiều bài thơ phổ nhạc, hát trên đài. Vậy là ngoài cái di chứng của chiến tranh và những cơn ngất ngư của Lưu Linh truyền lại, ông còn mang thêm cái máu đàn bà, máu của Hoạn Thư. Không đêm nào là ông không lè nhè tra vấn những câu thô bỉ, vô nghĩa: “hồi đó cô quen thằng nhà thơ đó như thế nào, hai người đã có gì với nhau chưa, thơ của hắn chỉ toàn rên rỉ vì nhớ người yêu cũ”. Rồi ông tưởng tượng xa hơn “Chắc là cô đã gặp lại hắn, gần đây tôi thấy cô ngơ ngẩn, chết lặng hàng giờ”. Thu Sương thầm nghĩ: “anh ta càng gợi cho mình nhớ Huy hơn, rất da diết !”. Những câu thơ như “Bây giờ anh xa em/ Một nỗi đau thầm lặng/ Anh viết lên vầng trăng/ Huyền ngôn đời thăm thẳm…” đã làm rờn rợn trên da thịt cô, và nỗi đau thắt ruột. “Huy ơi, dòng sông đã chia hai ngả tự bao giờ? Anh bây giờ ra sao, ở đâu? Trong tập thơ đó, anh chỉ viết cho tình yêu của chúng ta, và từ đây anh lại dạy cho em thứ ngôn ngữ không lời để nói về tình yêu của em. Nỗi nhớ đang hành hạ em và em hoang mang đến cùng cực”.
Hôm nay, đã quá 11 giờ đêm, ông Thắng mới về nhà. Ông cố bò lên gác, hai tay ôm đầu nhưng không lảm nhảm như trước. Thu Sương vẫn ngồi đọc sách như thường lệ, Trường Sơn ngồi bên cạnh học bài. Ông Thắng gầm lên:
– “Vẫn là thơ, vẫn là thằng khốn kiếp đó. Nó trở về cướp cô khỏi tay tôi”.
Thu Sương hốt hoảng:
-“ Không anh ơi! Chỉ là thơ thôi mà. Em vẫn là vợ của anh. Hàng ngày em vẫn lo chu đáo cho anh!”
-“ Cô chỉ còn cái xác, mỗi ngày cơm nước cho tôi, còn cái hồn, cô đã giao cho hắn. Cô khinh tôi là một thằng thương binh nát rượu, bây giờ trở thành gánh nặng, cái bóng ma trong đời cô !”.
– “ Không đâu anh ơi, hồn xác em vẫn là của anh”.
-“ Láo…láo… cô tưởng cô lừa được tôi hay sao? Mảnh đạn trong đầu đã gắn liền với số mệnh của đời tôi. Hôm nay tôi không muốn sống trong trái tim trống rỗng của cô nữa, và tôi cũng không muốn trao cô cho hắn, cô phải đi theo tôi đời đời kiếp kiếp, vì sao cô biết không, vì tôi mãi mãi yêu cô, dù sang bên kia thế giới, tôi vẫn cần có cô”.
Trong cơn điên loạn vì ghen, đầu lại đau như búa bổ, ông Thắng chạy lại giật tung cánh cửa hộc tủ nhỏ ở đầu giường, lấy ra khẩu súng ngắn chỉa thẳng vào Thu Sương. Nàng quỳ xuống đất, vái lia lịa “Anh ơi hãy để em sống nuôi con, em van anh…”. Bé Trường Sơn nhào tới ôm cha, nhưng súng đã nổ, bé ngã ngược lại phía sau, còn Thu sương gục xuống ôm ngực ràn rụa máu.
Ông Thắng chỉa họng súng vào đầu, nhưng có lẽ vì tay run, viên đạn trượt, bay thẳng lên trần nhà, làm sướt da đầu, máu tuôn xối xả. Ông còn bấm cò lần cuối nhưng súng đã hết đạn.
Vở bi kịch về cuộc hôn phối của thiên đàng và địa ngục, giữa “thua cuộc và thắng cuộc”, giữa tình yêu và quyền lực đã kết thúc với sự ra đi tức tưởi của hai mẹ con người thục nữ mệnh bạc, sau 20 năm đất nước hòa bình. Người cán bộ, người thương binh, điên loạn trong trại tâm thần cũng đi theo đồng đội về bên kia thế giới không lâu sau đó. Người ta không biết phải tiễn ông theo nghi thức nào, nghi thức của một anh hùng quân đội hay của một tên tội phạm giết người? Sự nghich lý của cuộc đời vẫn không buông tha cho loài có sẵn nụ cười và tiếng khóc…
7. Bằng đôi bàn tay xòe, Huy đưa 3 nén nhang lên tầm trán, thì thầm trong đầu: “Thu Sương ơi, hôm nay anh gặp lại em cũng là lúc âm dương vĩnh viễn chia cắt đôi ta. Anh chưa bao giờ tưởng tượng nổi điều này. Những hy vọng và ước mơ của anh trong suốt 30 năm, giờ đây thực sự đang quằn quại dưới dấu chấm hết mà bàn tay vô tình của thượng đế đè xuống đôi ta… Những vần thơ anh viết cho em từ bây giờ cũng chỉ lơ lửng cùng mây trời quanh quẩn nơi nghĩa trang hoang lạnh này. Có lẽ không còn ai dám đổ cho số mệnh đâu em, tất cả đều có từ một hiện hữu rất khắc nghiệt, chiến tranh. Những bi kịch trong xã hội ngày nay cũng là do những mảnh đạn sót lại trong từng ngõ ngách của cuộc đời mà có lẽ còn lâu dân tộc này mới gắp ra hết. Thôi em nhé, xin hãy chờ anh”. Sau lời nguyện, anh nhìn sâu vào đôi mắt đen thăm thẳm trong tấm hình khắc trên bia mộ, và có cảm giác như Thu Sương đang đứng cạnh anh, chứ không phải là đứa con gái của nàng.
Huy nắm tay Thảo Nguyên lặng lẽ bước đi dưới hai hàng thông ngậm ngùi vi vu trong gió. Ra khỏi nghĩa trang, hai người hướng về phía Biền Hồ, nơi mà cách đây không lâu, trong một đêm thu, một mình trên chiếc thuyền nan, anh linh cảm đôi mắt nàng nơi đáy hồ trong xanh thăm thẳm.
Mặt trời chạm xuống đồi núi phía tây, những dải nắng cuối cùng lướt trên mặt hồ như những thanh kiếm bạc lung linh huyền ảo, cố níu một vẻ đẹp hoang sơ mà tạo hóa đã dành ban tặng cho một vùng cao nguyên kỳ vĩ, như một bức bích họa mà Thượng Đế đã vẽ trên nền trời xanh.
Màn đêm đang phủ lên vùng sơn thủy u tịch đầy tính lãng mạn của thiên nhiên ở nơi này, người ta lại thấy một thiếu nữ thướt tha xinh đẹp trong chiếc váy đầm dài phủ chân, đôi mắt sâu đen như chứa cả bầu trời vùng cao nguyên thơ mộng, bước xuống một chiếc thuyền nang, rồi chèo ra giữa lòng hồ. Không ai hiểu được mục đích của cô gái, người ta chỉ thấy bóng của nàng in trên nền trời đêm như nữ thần tình yêu Aphrodite trong bức tranh thần thoại Hy Lạp. Có khi nàng lại nằm úp mặt lên mặt nước hồ tựa như một tấm gương đêm, chi chít những vì sao xa tít, ngắm mãi đôi mắt của người đàn ông huyền thoại ở dưới đáy hồ, giống câu chuyện nàng tiên đi tìm đôi mắt chàng Narziss của Oscar Wilde.
Kiều Giang. 16-4-2021.
Ảnh: Biển Hồ ở Pleiku Gia Lai.
- Kiều Giang ở Merryland Qui Nhơn.
Bạn, Loc Duy Huynh, Nguyen Thi Thu Suong và 14 người khác

Mảnh Đạn


Tiểu thuyết ít chữ của Kiều Giang
[Tiếp theo]
5. Hai năm, sau khi dò biết Quang đã cùng đồng đội bay qua Thái Lan trong những ngày cuối của chế độ miền Nam, và Huy thì như đã lùi xa vào dĩ vãng, vệt máu đã hằn khô trong tim nàng, một tình yêu tuổi trăng tròn, Thu Sương an phận với cái quán nước nhỏ đã sang lại của một người khác, để kiếm sống qua ngày . Dù cuộc sống đã ổn định hơn, nhưng khi có thời gian để lắng nghe nỗi lòng, cô lại thấy nó lạc lõng, trống không. Trong khi đó ông phó chủ tịch Thắng vẫn kiên trì chờ đợi…
Cho đến một ngày ông Thắng phát hiện ra có nhiều người quyền chức đến quán cà phê của Thu Sương trồng cây si tới nửa đêm mới chịu về, ông vội báo cáo với tổ chức và cơ quan, xin cưới Thu Sương làm vợ. Từ đó không ít lời ra tiếng vào: “Một nhà cách mạng thứ thiệt, ông thiếu tá phó chủ tịch thị xã mê cô vợ của một anh lính ngụy tử trận, có sắc đẹp mê hồn”, nhưng ông đã bất chấp. Trong tổ chức cũng có người khuyên ông nên nghĩ đến con đường hoạn lộ đang thênh thang trước mặt mà từ bỏ mối tình ngang trái ấy đi, nhưng ông nhất quyết đi theo lý lẽ của con tim mà lâu nay ông đã bỏ quên, nhưng nó vẫn kiên trì đập trong lồng ngực mình. Ông không muốn chạy theo thứ hư vinh không biết ngày nào trận cuồng phong tranh giành quyền lực sẽ cuốn đi. Có những lúc hoang mang, ông nhớ lại cái triết lý của thằng bạn nhà quê thời trung học: “Tình yêu là vĩnh cửu, còn quyền lực là phù vân”. “Hắn nói đúng, nàng là hơi thở, là lẽ sống của cả cuộc đời ta. Ta thà bỏ tất cả chứ không thể bỏ nàng vì giờ đây nàng đã là của ta”, ông thiếu tá cán bộ thành phố nghĩ thầm. Hai mảnh đạn pháo vẫn còn nằm im trong đầu ông, lâu nay là cái bùa hộ mệnh cho sự nghiệp chính trị của ông, nhưng nay, muốn đẩy ông xuống hố, người đồng chí của ông cũng có thể chỉ ra hai cái bùa mê mà Thu Sương đặt vào tim ông, để rồi kết luận ông là kẻ hủ hóa, biến chất. Lường trước những rủi ro có thể xảy ra, phòng khi ông bị đá văng ta khỏi tổ chức, ông đã chỉ đạo cho đàn em hợp thức hóa cho Thu Sương căn nhà trong khu gia binh cũ và cấp cho ông một căn khác mặt tiền đường phố, nhà của một quan chức chế độ cộng hòa đã bỏ chạy.
Trong 5 năm trăng mật với ông thiếu tá phó chủ tịch thị xã, dù hình ảnh của Huy và Quang vẫn không mờ nhạt trong lòng Thu Sương, nhưng nàng luôn cố tỏ ra rằng mình rất hạnh phúc. Nàng trở thành ngôi sao sáng chói trong hàng ngũ vợ của cán bộ trong thành phố. Ông Thắng biết rất rõ điều đó. Theo lời dặn của ông, nàng không dám son phấn chưng diện gì trong các buổi lễ tiệc, nhưng nàng cũng vẫn làm cho hàng quan chức thành phố phải ngoái đầu nhìn theo, một cách thèm thuồng, kinh ngạc, rồi họ ghé vào tai nhau xầm xì ganh ghét. “Vợ của một tên ngụy quân !”, câu cửa miệng của họ là vậy, và sau đó là những ngọn giáo chỉa vào lưng ông Thắng. Nhưng nghiệt nỗi ông lại là một sĩ quan thương binh có nhiều huân huy chương, vừa là con liệt sĩ, nên họ chưa thể làm gì được.
Năm nay, bé Lâm Trường Sơn, đứa con chung của Thu Sương và ông Thắng lên 6, phe ông chủ tịch thị xã thắng thế trong thị ủy, lại có kẻ phát hiện Thu Sương không phải là vợ của một hạ sĩ lính cộng hòa tử trận mà là vợ của một đại úy phi công trốn chạy trong ngày 17-3. Ông bị các đồng chí của ông kiểm điểm, gán cho ông cái tội bao che cho vợ kẻ thù, lập trường quan điểm thiên hữu, phản động. Ông bị đẩy xuống làm một chân cán bộ quèn trong phòng Thương binh xã hội, chẳng còn chút quyền hành gì. Ông Thắng chua chát: “Kẻ thù thì đã bỏ đi hàng chục năm rồi, nhưng chúng gửi lại cái bóng trong đầu của các đồng chí của ta, bây giờ ta là kẻ thù của họ, còn ai là kẻ thù của ta?”. Rồi ông ngậm ngùi: “ Thương cho Thu Sương, một cánh hoa trang đài hiền thục, mới đôi mươi đã bơ vơ trước làn tên mũi đạn. Nàng như giọt “sương thu” buổi sớm mai trên cành, không có tội lỗi gì. Giá như hôm đó ta đuổi nàng ra khỏi nhà với đứa trẻ sơ sinh trên tay thì không biết dòng đời sẽ đưa nàng về đâu ? Vậy là bàn tay nghiệt ngã của tạo hóa, đôi khi cũng phải có điểm dừng”.
Rồi chỉ ba năm sau, ông Thắng có quyết định về hưu non do thành tích chiến đấu và là thương binh. Ông cảm thấy hụt hẫng, biết mình bị “đẩy”, nhưng đó là quyết định của tổ chức, một thói quen của tổ chức, không ai có quyền khiếu nại.
Ngày về vườn của một người từng có quyền thế của thành phố mà không có lấy một bữa tiệc chia tay, ông Thắng cảm thấy vừa đau buồn, vừa uất ức vì sự bạc bẽo đến bỉ ổi của quan trường. Dù được Thu Sương ân cần chia sẻ, nhưng ông Thắng chưa thể quên đi phong cách của một kẻ quyền thế, được người khác khom lưng cúi đầu. Trước đây Thu Sương là cái bóng của ông, bây giờ thì ngược lại. Hàng ngày ông chỉ quanh quẩn bên vợ, bạn bè thưa dần, không còn ai mời mọc, săn đón.
Nổi tiếng là một bà chủ quán cà phê có sắc đẹp mặn mà nhất thành phố, quán nàng ngày một đông khách. Điều đó không những làm cho ông Thắng không vui mà còn thêm lo lắng, nhất là khi thời gian đã điểm bạc mái tóc ông và mảnh đạn trong đầu càng làm cho cái cằm của ông thêm méo lệch. Nhiều lúc chứng kiến cảnh những chàng trai non tơ lịch lãm nói chào tâng bốc Thu Sương, ông đã nhíu mày khó chịu, dù ông thấy vợ ông ứng xử rất đúng mực với phong cách của một người đàn bà có chồng. Từ đó ông đâm ra trầm ngâm tư lự.
Thế rồi ông bắt đầu mượn rượu để giải sầu, bước ngoặc cuộc đời của một người đã từng thét ra lửa, là mẫu mực, là biểu tượng của chế độ mới. Nhưng đó lại là nỗi ám ảnh thường trực cả cuộc đời còn lại của Thu Sương. Gần như đêm nào cũng vậy, sau giờ đóng quán, là nàng phải giải quyết căn phòng nồng nặc mùi rượu thịt từ con ma men thải ra. Nàng ôm ngực, vừa ràn rụa nước mắt, vừa đè nén cơn nôn đang cuồn cuộn trong ngực nàng.
“Có ngờ đâu, ngày ấy chính Thắng đã ra lệnh cho tên lính mở cho ta cánh cửa của sự sống, bây giờ cũng chính anh đang dần khép nó lại”, nhiều lúc nàng nhủ thầm chua chát.
Không khí trong nhà dần trở nên tẻ nhạt. Ngoài kia người ta vẫn chỉ bàn đến chủ nghĩa, nghèo đói và chiến tranh. Một sự hối hả thầm lặng lướt qua khuôn mặt xã hội. Bo bo, củ khoai, vượt biên và cuộc chiến biên giới phía Tây Nam và phía Bắc bỗng thành đề tài ăn khách trong các trang báo. Thu Sương mất phương hướng. Ba người đàn ông đã bỏ nàng ra đi bằng những cách khác nhau, một người đi tìm lối để thoát ra ngoài cuộc chiến, một người đang trong cơn binh lửa, và một người nữa dù sống trong cùng một ngôi nhà nhưng đã như không còn hiện diện trong cuộc đời nàng. Người đàn bà chưa tới nửa chừng xuân bỗng thấy mình vô gia đình, trong hồn nàng chỉ còn nỗi cay đắng cô đơn, một cái hố đen không đáy. Phải chăng nàng đang chạy trốn trong chính tâm hồn mình!
-Ảnh trên internet
- Với nhà thơ PTT.
Bạn, Nguyên Bình, Dũng Tôn Thọ Dương và 49 người khác
20 bình luận
Yêu thích
Yêu thích
Bình luận
Chia sẻ

Mảnh Đạn


Tiểu thuyết ít chữ của Kiều Giang
[Tiếp theo]
4. Thu Sương nằm viện đã được nửa tháng, thiết bị y tế của bệnh viện cũng cạn dần vì phải lấy để chi viện cho chiến trường. Hôm nay, dù người mẹ và đứa bé vẫn còn yếu, nhưng lãnh đạo mới của bệnh viện quyết định cho nàng về. “Bản năng sinh tồn dạy cho ta được nhiều điều”, nàng nghĩ. “Từ nhỏ giờ, đâu có ai dạy mình cách nuôi con, thế mà chỉ cần bác Tư chỉ cho mình đôi động tác, nay thì cũng bớt lóng ngóng rồi”.
Sáng nay, sau khi sắp xếp lại vật dụng trong nhà cho ngăn nắp, phù hợp với một căn nhà có người nằm cữ , bác Tư khóa trái cửa, dẫn chiếc xích lô đã được lợp lại cái mui, đạp thẳng tới bệnh viện. Không hiểu sao, trong lòng bác thấy vui, bác cười thầm, triết lý: “ Bom đạn đôi khi cũng có cái hay, miễn là nó không tàn phá. Nếu như ngày thường, trong cái đêm người thiếu phụ trẻ bỏ trống nhà, trong cơn đau, cho đến trưa hôm sau ta mới về khóa cửa, kẻ trộm đã không tha cho một cái rác nào”.
Quá nửa buổi, bác Tư hớn hở dắt chiếc xích lô lên lề đường, trên xe là mẹ con Thu Sương, thẳng vào căn nhà trong trại gia binh. Bỗng bác khựng lại, vì thật lạ, trên cái ổ khóa lại có dán thêm một tờ giấy, chữ to nguệch ngoạc: “nhà này thuộc diện nhà nước quản lý, không phận sự, cấm vào”. Cuối tờ giấy là con dấu đỏ chót với chữ ký của chủ tịch phường 10, Lâm Văn Thắng.
-“Bây giờ chỉ còn cách bác chạy lên phường gặp cho được ông chủ tịch tên Thắng, trình bày hoàn cảnh bi đát của tôi, may ra ổng thương tình cho người xuống mở cửa”, Thu Sương nói, dáng ủ rũ, ôm con ngồi bệt xuống nền xi-măng, tựa vào cánh cửa, nhìn bác Tư, vẻ mệt mỏi.
Mặt trời gần đứng bóng, một người đàn ông tuổi trung niên trong bộ quân phục xanh lá rừng, đeo bên hông một khẩu K54, đội mũ cối, trông khá oai vệ, gương mặt khắc khổ, cằm hơi lệch bỡi một vết sẹo vừa mới lành da, theo bên là một cậu lính trẻ, vai đeo khẩu AK. Cả hai lặng lẽ tiến về phía sản phụ đang cúi mặt che nắng cho đứa con bọc trong chiếc khăn lông trắng. Sau khi liếc nhìn dò xét, người cán bộ hất hàm hỏi:
-“Này cô gái kia, cô có yêu cầu gì với tôi?”. Người thiếu phụ trẻ giật mình ngẩng lên ngơ ngác nhìn người cán bộ phường, bất ngờ, lạ lẫm. Trong khi đó, người sĩ quan quân quản là chủ tịch phường cũng khựng lại vì cái vẻ đẹp quyến rủ của cô gái “một con” vừa tròn đôi mươi. Hình như cả hai đều trải qua một thoáng suy nghĩ rất ấn tượng mà cũng rất mơ hồ. Cuối cùng cô gái rụt rè đáp:
– “ Thưa cán bộ, đây là nhà của em. Nay em sinh con mới được nửa tháng, nếu nhà bị tịch thu, em bị đuổi, mẹ con em biết đi đâu!”.
-“Chồng và người thân của cô đâu?” ông cán bộ hỏi.
Cô gái rơm rớp, nghẹn ngào:
-“ Chồng em chết trận Dakto cách đây 6 tháng, người thân của em cũng theo dòng người di tản cả rồi, em cận kề ngày sinh nên không đi được”.
Thu Sương tìm cách nói khác đi hoàn cảnh của mình.
-“Chồng cô khi chết, cấp bậc gì trong quân đội ngụy?”.
-“Dạ thưa cán bộ, hạ sĩ”.
Đắn đo một lúc, rồi không biết vì thương cảm hoàn cảnh, hay vì sắc đẹp của thiếu phụ, người sĩ quan trẻ kéo anh lính ra chỗ khác, nói: “Đồng chí xé niêm phong cửa đi, trong hoàn cảnh này, vì lý do nhân đạo, ta chưa thể đuổi cô ta đi được”.
Với lý do là không thể đuổi một sản phụ cùng đứa trẻ sơ sinh ra khỏi nhà khi tiếng đạn bom còn lẩn khuất đâu đó trong cái thành phố đang cạn kiệt từng ngày, người sĩ quan chủ tịch phường trẻ tuổi tuần nào cũng đến thăm và “làm việc” với Thu Sương về nhân thân của cô, vừa ra vẻ thương cảm, ve vãn, vừa đe dọa, kể công.
Thế rồi ngày tháng cũng mặc nhiên đè lên thân phận con người. Một năm trôi qua, ông chủ tịch phường ngày càng đắm đuối vẻ đẹp của Thu Sương, đồng thời cô cũng dần rơi vào cảnh khốn cùng vì chút ít tiền dành dụm đã hết sạch cho việc nuôi con. Khi đôi mắt của người sương phụ càng quầng thâm, buồn sâu thẳm, thì nó cũng càng hốt hồn người thanh niên đã từng lăn mình vào khói lửa chiến tranh gần hai mươi năm mà chưa biết hưởng chút hơi hám của một người đàn bà đài các như nàng. Ông đại úy chủ tịch phường bỗng chơi vơi trong cái hố tình không đáy do chính mình tạo ra. Từ đấy ông đẩy người xích lô già lâu nay vẫn cơm nước hầu hạ người thai phụ non yếu ra khỏi nhà và biệt phái một người lính thân tín đến giúp đỡ Thu Sương. Ông cắt một nửa tem phiếu của mình để nuôi sống mẹ con nàng.
Chuyện ông Thắng “hủ hóa” với vợ “lính ngụy” được ông khéo léo giữ kín như vật trong lu. Việc ông lui tới nhà Thu Sương chỉ diễn ra vào ban đêm và cũng đã có người lính thân tín kia che tiếng cho ông. Sau một năm, ông được thăng chức lên làm phó chủ tịch thị xã, phụ trách nhà đất, nhờ đó ông lại càng có điều kiện để thực hiện ý định chiếm đoạt trái tim và cuộc đời Thu Sương. Nhiều lúc ông thầm nghĩ: “Phải chăng đời mình đã hy sinh quá nhiều cho cuộc cách mạng này, thậm chí trong đầu ta còn mấy mảnh đạn pháo chưa được gắp ra, cuộc sống của ta có thể bị di chứng của chiến tranh cướp đi lúc nào không biết. Hôm nay ông trời ban tặng Thu Sương cho mình thì đó cũng là lẽ công bằng, và tổ chức cũng có thể thông cảm được”.
Thế rồi chuyện gì đến, cũng phải đến. Sau khi tổ chức thôi nôi cho bé Thảo Nguyên, đêm đã khuya, nhưng ông Thắng không chịu ra về. Thu Sương nài nỉ:
-“ Mẹ con em đội ơn anh nhiều lắm. Dù anh không phải là bố đẻ của Thảo Nguyên, nhưng gần một năm nay, nó đã sống dưới sự che chở của anh…”. Cô ngập ngừng:
-“ Em là thân phận gái có chồng, đã trải qua đôi lần rách nát con tim…, còn anh là trai mới lớn, lại có chức quyền, ta gặp nhau trong nỗi trớ trêu của con tạo, em nào có xứng với anh, xin anh suy nghĩ lại. Anh về đi, đừng gây khó cho nhau nữa …”.
Ông Thắng chìm vào nỗi suy tư đầy chất đắng trong đầu: “Ta sinh ra và lớn lên từ một làng quê nghèo với mái lá, con trâu, củ khoai và giông bão. Khi miền Nam có truyền hình thì quê ta cũng chỉ nghe tin tức từ những loa phóng thanh gắn trên trụ điện bằng tre cuối xóm. Nhưng hôm nay ta là kẻ chiến thắng, cái xã hội gọi là văn minh kia lại phải trốn chạy. Thế mới hiểu vì sao một dân tộc du mục, sống trong các chiếc lều bằng da thú và trên yên ngựa, cả mùa đông lẫn mùa hè, của nước Mông Cổ lạc hậu đó, lại chinh phục được nửa châu Âu văn minh và san phẳng đế chế của triều đại nhà Minh Trung Hoa. Té ra chân lý của chiến tranh lại rất ngộ nghĩnh. Ông phó chủ tịch quận cười trong bụng vì cái triết lý chiến tranh ngộ nghĩnh của mình. Còn sự nghiệt ngã và sự bừng tỉnh của buổi sáng hôm ấy thì sao? Một sản phụ, vợ của một tên lính ngụy tử trận sao lại có cái vẻ đẹp hút hồn điên dại đến như thế. May mà ta đã khéo che đậy. Nhưng chưa biết bao giờ cái kim trong bọc sẽ lòi ra, và 20 năm lăn vào bom đạn của ta sẽ đổ vào cái hầm cống nào trong cái thành phố cao nguyên này? Tình yêu lãng mạn trong cái xã hội này là một tội lỗi, một thứ sản phẩm của tư duy tư sản băng hoại, phù phiếm. Tình yêu chỉ có trên nương rẫy, trên đồng ruộng, trong nhà máy, trên chiến hào và người đang yêu chỉ có quyền nói, khi họ đang cầm cuốc và cầm súng. Tình yêu làm gì có giữa hai con người ở hai bên chiến tuyến? Ta đã dám tiến lên trước họng súng của kẻ thù, nhưng hôm nay lại phải quỳ gối trước con tim đang thổn thức của mình”. Ông Thắng mỉm cười, vừa chua chát, vừa tự bỡn cợt mình, rồi quay sang Thu Sương:
-“ Có lẽ, hôm nay, anh không nên tiếp tục lừa dối chính mình và với em nữa”.
Ông ngồi sát lại, đưa tay nắm lấy tay người thiếu phụ tuổi mới đôi mươi:
-“Thu Sương ơi, anh đã si mê em ngay từ giây phút đầu gặp em vào cái buổi sáng định mệnh ấy. Hình bóng em cứ quấn chặt lấy anh như một một hình tượng liêu trai, dù có súng đạn cũng khó mà đuổi nó đi. Em đã làm cho anh nhận rõ ra sự phi lý của cuộc đời và nỗi cô đơn cùng cực mà anh đã gánh chịu trong suốt 20 năm, dưới làn bom đạn, cơm vắt và ngủ rừng. Sự xung đột không khoan nhượng giữa quyền uy với sắc đẹp và tình yêu”.
Thu Sương cúi mặt, hai hàng nước mắt bỗng dưng lăn dài xuống đôi gò má ửng hồng non tơ. Một nỗi dày vò xuyên qua trái tim nàng:“Tình yêu không thể là sự đổi chác, ta chưa hề yêu Thắng, ta hiểu rõ trái tim ta. Trong cơn khốn cùng, Thắng đã nhẫn nại bao vây, bắt ta, một sương phụ chưa tới tuổi nửa chừng xuân phải chịu ơn anh. Ta ôm đứa con thơ còn đỏ hỏn trên tay, đời đã buộc ta phải lựa chọn giữa cái sống và chết. Nhưng ta cũng không thể từ chối quá khứ. Hình bóng của Quang luôn hiện về, đêm đêm ôm chặt lấy ta, thơ mộng và kiêu hùng. Quang đã để lại trên thân xác trinh trắng của ta những dấu ấn thật ấm áp dịu dàng, có khi hừng hực lửa, những phút giây mà ta biết mình đang hiện hữu giữa trần gian, không thể phai mờ trên từng phần da thịt”.
Nàng nói như rên rỉ:
-“ Anh ạ, em không hiểu trong tình yêu của anh có xem lẫn quyền uy hay không! Nếu có, thì anh đã tự ngộ nhận và tự lừa dối mình, còn em chỉ là sự khuất phục, chứ không phải là tình yêu.Tình yêu của em chỉ có thể để đổi lấy tình yêu, chứ em không đổi lấy áo cơm và quyền lực”.
-“ Anh không hề dùng quyền lực để đổi lấy tình yêu của em”.
– “Vậy thì anh hãy chờ đợi. Chờ đợi cho đến khi nào trái tim em mách bảo rằng, anh thực sự yêu em chứ không phải là dùng quyền lực để ban ơn. Hãy chờ đợi, vì đàng sau bóng đêm là bình minh chứ ko phải là hoàng hôn”.
-“ Vâng, anh sẽ chờ đợi. Anh cảm ơn cuộc đời đã trao cho anh một thiên thần mà anh nghĩ đời anh không bao giờ có được”.
Đêm chìm vào khuya. Bé Thảo Nguyên đang ngủ say, Thắng ngồi sát bên Thu Sương trên chiếc giường gỗ, anh buông tay nàng ra rồi cúi gục đầu lên hai bàn tay mình… Ngoài kia, thành phố cũng lặng lẽ trở mình trên sự đổ vỡ, hoang mang.
[Còn nữa]
Tranh : Biển Hồ - Pleiku - Gia Lai.
Bạn, Nguyên Bình, Loc Duy Huynh và 27 người khác
5 bình luận
Yêu thích
Yêu thích
Bình luận
Chia sẻ