Truyện ngắn của Kiều Giang
[Tiếp theo và hết]
4. Đêm cuối năm, trời Thăng Long mưa phùn, như có ai đó đem cái giá rét từ phương bắc về. Không thể chợp mắt được, vua Lê bước lại vén bức màn cửa nhìn ra khu vườn sau lưng điện Kính Thiên, bóng đêm mịt mùng, thỉnh thoảng mới thấy một toán lính, tay xách đèn bão, còn tay kia cầm cây giáo dài, dáng co ro trong chiếc áo tơi lá cọ, đứng gác, trông tiều tụy, thảm thương.
Đêm im ắng khác thường. Tuy mùa đông Thăng Long buốt giá, nhưng Chiêu Thống thấy như mình đang ngồi trên chảo lửa, vua Lê nhìn về phương nam, rồi thở dài: “Nguyễn Huệ quả là trang anh hùng dũng mãnh, nghe đâu, đối với bọn tùy tướng, chỉ cần hắn trỏ tay, đưa mắt, thì ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm sét, không có người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn, hắn cầm quân xuất quỷ nhập thần, đi không ai biết, ở chẳng ai hay, mấy lần hắn ra vào Thăng Long như đi chợ, bắt Nguyễn Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, khi gươm kề vào cổ, thì Vũ Văn Nhậm mới biết chủ tướng của hắn đang uy nghi đứng trước mặt. Gần hai tháng nay, Lê Quýnh dối gạt Tôn tướng quân, để trấn an quân thiên triều, chứ có biết gì về tung tích của Nguyễn Huệ Tây Sơn! Hẳn nhiên, Nguyễn Huệ không phải là loài dê lợn như Tôn Sĩ Nghị đã từng huênh hoang, và cái ngai vàng không có dân của ta, không biết còn tồn tại đến bao giờ !”.
Đã mấy ngày xuân trôi qua, đêm đêm nhà vua chỉ nghe tiếng đàn hát từ dinh của Tôn Sĩ Nghị vọng sang, còn Thăng Long thì vẫn chìm trong u buồn. Nhà vua chỉ nghe tiếng phụ nữ than khóc ở đâu đó, mà không nghe tiếng cười đùa của trẻ thơ, chẳng có tiếng dân giết lợn để vui xuân, mà chỉ có tiếng chó sủa vào những toán lính Thanh say sưa ngả nghiêng trên phố. Tuy là trời đã hết mưa phùn, nhưng ngoài đường cũng thưa thớt người đi, trẻ con không mặc áo mới ra đường, phụ nữ không thấy có áo hoa, chợ không hoa đào, cảnh tượng kinh thành chưa bao giờ thê lương ảm đạm như thế.
Điện Kính Thiên và dinh Tổng đốc vẫn liên lạc với nhau thường xuyên và chặt chẽ. Nghị an tâm tận hưởng những ngày xuân chiến thắng bên những cô đào mơn mởn xứ An Nam. Trong khi đó, vua Quang Trung đã chia quân thành 5 đạo, tối 30 Tết, từ Tam Điệp, gióng trống trận, thần tốc tiến về Thăng Long. Trong cơn mơ màng của hương hoa nơi phòng the còn chưa dứt, bỗng rạng sáng mồng 4, quân kỵ chạy về cấp báo với Nghị rằng Hà Hồi đã thất thủ trong đêm mồng 3, quan quân ở đồn Hà Hồi đã đầu hàng, và bị quân Tây Sơn bắt hết, đồn Khương Thượng cũng bị đô đốc Long phá vỡ tan tành, thái thú Điền Châu Sầm Nghi Đống đã thắt cổ tự vẫn, và hiện quân Tây Sơn đang vây kín Ngọc Hồi. Nghị nghe, choáng váng mặt mày, thốt lên: “ Tướng Tây Sơn từ trên trời xuống, quân Tây Sơn từ dưới đất chui lên hay sao?”. Nói rồi, Nghị sai lãng binh Quảng Tây là Thanh Hùng Nghiệp đem binh tới cứu, nhưng không ngờ rằng canh tư đêm ấy, mặt trận phía tây bắc bị vỡ, Nghị cỡi ngựa ra xem thì thấy khói lửa bốc lên đầy trời, quân Tây Sơn đã vào cửa ô, chém giết quân Thanh chết không biết bao nhiêu mà kể, Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, bỏ cả sắc thư, kỳ bài, quân ấn, thúc bọn lính kỵ mã chạy trước ra cầu phao, rồi nhắm hướng bắc mà chạy. Bọn lính trong doanh nghe chủ tướng đã bỏ chạy, nên như rắn mất đầu, cũng tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu phao, cầu phao đứt, rớt xuống sông chết đuối, xác làm tắt nghẽn cả sông Nhĩ Hà.
Vua Lê ở trong điện nghe tin xấu, hốt hoảng, chưa kịp mang theo gì đáng giá, tất cả đều bỏ lại, vội vã cùng bọn Lê Quýnh, Trịnh Hiến đưa thái hậu trốn đi. Khi đến bờ sông thì cầu phao đã đứt, phải chạy ngược lên Nghi Tàm, cướp được thuyền đánh cá, chèo sang bờ bắc. Vua Lê nhìn thái hậu rồi nhìn lại bờ nam, rơi nước mắt. Trời đã nhá nhem tối, vua tôi Lê Chiêu Thống đến cửa ải thì đuổi kịp Tôn Sĩ Nghị, nhà vua ngậm ngùi: “ Cô bất tài, nghiệp lớn không thành, lại làm nhọc tướng quân, nay xin ở lại đất nước thu nhặt dân binh, mưu khôi phục xã tắc, xa nhờ oai linh của tướng quân, may mà xong việc, xin kính chúc tướng quân về triều được hai chữ vạn phúc”.
Nghị nói: “ Nguyễn Huệ chưa bị diệt, việc này còn chưa thôi, nay hãy dâng biểu xin quân, trong vòng một tháng, đại quân lại kéo sang. Ở đây gần đảng giặc, sợ không yên, hãy tạm vào Nam Kinh nghỉ ngơi, chờ thánh chỉ vậy”.
Nghị thu nhặt tàn quân, còn Chiêu Thống cùng các cận thần theo hầu, đưa thái hậu theo Nghị sang Trung Quốc.
5. Ngày 30 tháng chạp năm mậu thân, khi đang ở Tam Điệp, chuẩn bị xuất quân, vua Quang Trung đã họp các tướng và bảo rằng:
- “ Lần này ta ra dẹp giặc Thanh, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua chỉ trong mươi ngày, có thể đuổi được người Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm hổ thẹn mà lo mưu báo thù, như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân, nên nỡ nào ta làm như vậy. Đến lúc ấy phải có người khéo lời lẽ mới dẹp nổi việc binh đao, không có Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được. Chờ mươi năm nữa, cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, nước ta đã giàu, quân ta đủ mạnh thì ta có sợ gì chúng.”. Bọn Sở, Lân cùng tùy tướng đều quỳ lạy tạ mà nói: Chúa thượng nhìn xa trông rộng, chúng tôi ngu dại không thể nghĩ đến chỗ đó.
Chỉ trong vòng năm ngày, Quang Trung đã quét sạch 29 vạn quân Thanh ra khỏi bờ cõi. Trưa mồng sáu tháng giêng năm Kỷ Dậu, Quang Trung tiến quân vào đóng quân ở Thăng Long, rồi ra lệnh chiêu an. Khoảng mười ngày sau, đã có hơn một vạn quân Thanh ra đầu thú, và đều được cấp phát lương ăn áo mặc. Nhà vua còn ra lệnh thu nhặt hài cốt quân Thanh tử trận chôn thành gò đống, lập đàn cúng tế, sai Vũ Huy Tấn làm văn tế, biểu thị sự thương xót đối với quân dân Trung Quốc chết xa nhà, bài văn tế có đoạn viết:
“Nay ta
Sai thu nhặt xương cốt chôn vùi
Bảo lập đàn bên sông cúng tế
Lòng ta thương chẳng kể người phương Bắc
Xuất của kho mà đắp điếm đống xương khô
Hồn các ngươi không vơ vẩn ở trời nam, hãy lên đường mà quay về nơi hương chí
Nên kính ngưỡng ta đây là chủ, chan chứa lòng thành
Những mong sao đáp lại đạo trời, dạt dào lẽ sống…***
Nhân bắt được chiếu thư của Càn Long và quân ấn do Sĩ Nghị bỏ lại, Quang Trung đưa cho Ngô Thì Nhậm xem và bảo:
-“ Qua tờ chiếu của vua Thanh, ta thấy rõ bụng dạ của họ như thế nào rồi. Nay họ bị ta đánh thua, nhịn thì thẹn, báo thù thì khó. Vậy những tàn quân ta bắt được, đều nên cấp lương và đưa hết lên cửa ải. Ngươi giỏi nghề văn tự, nên thảo một bức thư gửi cho vua Thanh, đại khái nói: Ta là nước nhỏ, một lòng kính thuận, sợ mệnh trời, thờ nước lớn, nào dám có ý khác. Trước đã có biểu văn đệ sang, bị ngài tổng đốc họ Tôn dìm đi, không thể đến bề trên được. Gần đây ta từ miền Nam tới, vốn là muốn biện bạch lòng thật thà với ngài tổng đốc, không ngờ thiên hạ đồn nhảm, làm to thanh thế của ta, khiến cho mọi người nghi ngờ sợ hãi, bỏ đội ngũ mà chạy trước, để đến nỗi cầu phao bị đứt, quân thiên triều phải chết đuối, ai cũng tranh đường chạy, dẫm đạp lên nhau, kẻ chết, người bị thương. Đó là do ngài tổng đốc họ Tôn gây nên, không phải là tội của nước nhỏ dám giao chiến. Nay đã thu góp được số tàn quân hơn vạn người, xin cấp đủ lương ăn, áo mặc, gửi trả về cố hương, để tỏ rõ lòng thành”.*
Thì Nhậm theo ý đó, thảo một bức thư gửi cho Càn Long, còn ngầm đưa vàng bạc đút lót Phúc Khang An và Hòa Khôn để mau xong việc. Cuối mùa đông năm ấy, Vua Thang sai sứ sang phong cho Quang Trung làm An Nam quốc vương.
Lê Chiêu Thống lẻo đẻo theo Nghị qua ải Nam Quan, sang Trung Quốc, đến trú ngụ ở thành Nam Kinh, đúng vào lúc Phúc Khang An đến thay chức quan của Tôn Sĩ Nghị, và mưu đồ giảng hòa với Tây Sơn, Khang An đón vua Lê cùng với cả bọn quan lại đi theo cùng, vào nghỉ trong thành của phủ Quế Lâm. Phúc Khang An lừa vua Lê cùng bọn tôi thần gọt đầu gióc tóc, để đuôi sam như người Mãn Thanh, rồi tâu láo với vua Thanh rằng, vua Lê bây giờ không còn muốn phục quốc nữa mà đã gọt đầu gióc tóc, muốn xin ở lại Trung Quốc vĩnh viễn.
Để vua Lê khỏi đòi viện binh phục quốc, Hòa Khôn lập mưu đưa vua Lê về Yên Kinh, cạnh nhà Quốc Tử Giám, trước cửa nơi vua ở có biển đề: “ Tây An Nam doanh”, còn các quan đi theo vua thì ở “ Đông An Nam doanh”. Tháng 3, mùa xuân năm Tân hợi 1791, Hòa Khôn phỉnh họ tập trung, để đưa về vùng biên giới, lo ngày trở lại quê hương, rồi âm thầm đày họ đi mỗi người một nơi, chỉ để một mình Trần Thiện ở lại hầu quốc vương. Lúc ấy, Lê Chiêu Thống mới biết rõ mình bị các quan nhà Thanh lừa, từ ấy, vua Lê, dù trong lòng uất ức, nhưng không dám nói đến chuyện xin viện binh nữa
Mùa hè năm Nhâm Tý 1792, nhà vua nhìn đứa con đầu vĩnh viễn ra đi vì bệnh đậu, việc chôn cất thật sơ sài, còn không bằng con của một kẻ thứ dân, Chiêu Thống mới thấy hết nỗi chua chát của kẻ vong nô, sống vất vưởng trên xứ người, vua lo buồn sinh bệnh, thoi thóp nằm liệt. Mùa đông, bệnh của vua, ngày càng nặng. Đêm ấy trời Yên Kinh rét đậm, Chiêu Thống gượng ngồi dậy nhìn ra khu vườn nhàn nhạt ánh trăng dưới bầu trời lặng ngắt và xa lạ, nhà vua thở dài: “ Trong hơn hai trăm năm mươi năm, từ thời Trang Tông, tuy bị chúa Trịnh chuyên quyền, sóng gió liên tiếp nổi lên, nhưng bờ cõi vẫn được giữ vững ở phía bắc và mở mang về phía nam, cho đến khi ta cõng quân Thanh vào Thăng Long, lúc đó, ngai vua của ta thì còn, nhưng nước đã mất. Ta hiểu dân An Nam oán hận ta, nguyền rủa ta, giờ đây, ta biết mình quá hèn hạ và tội lỗi. Khi mà một ông vua như ta vì muốn bảo vệ cái ngai vàng mục nát của mình, mà đi rước ngoại bang về để chúng bảo vệ cái ngai cho ta, thì tai họa cho dân tộc sẽ không biết còn truyền bao nhiêu đời. Nhưng dân tộc An Nam rất kỳ lạ, khi sinh ra một Chiêu Thống đốn mạt như ta, thì đồng thời cũng sinh ra một trang hào kiệt như Nguyễn Huệ…”.
Nghĩ đến đó, Chiêu Thống khẽ rùng mình và giấu kín dòng tâm tư đó vào lòng, và cũng sẽ chôn sâu vào chiếc quan tài lại mang nhãn hiệu Trung Hoa.
Hôm sau Chiêu Thống gọi các thị thần vào dặn:
-“ Trẫm gặp phải lúc vận nhà suy kém, không thể giữ được xã tắc, phiêu bạt nơi đất khách quê người, để tính việc khôi phục. Nhưng mơ ước ấy của trẫm chắc không bao giờ thành và cũng không còn cần thiết nữa. Nay ta đành gửi nắm xương tàn này nơi đất khách. Sau này nếu các khanh được về nước thì xin hãy cho ta đi theo, để ta tạ tội với các tiên đế cùng bá tánh và được yên nghỉ ngàn đời bên cạnh tổ tông…”
SG 30/6/2016
Tài liệu Tham khảo:
* Hoàng Lê Nhất Thống Chí – NXB Văn học 1984
** Khâm định Việt sử thông giám cương mục chính biên Q46
*** Quang Trung Nguyễn Huệ, những di sản văn học- NXB Văn Hóa 2006.
và một số tài liệu khác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét