Bài này đang viết về một người mới qua đời gần đây. Vài thông tin, như các chi tiết liên quan đến cái chết và những sự kiện liên quan, có thể thay đổi mau chóng khi có thêm nhiều sự việc, thông tin được công bố. Trong trường hợp bài viết này bị sửa đổi với các chi tiết gây tranh cãi về cái chết của nhân vật, xin thông báo cho bảo quản viên tại trang này. |
Whitney Houston | |
---|---|
Houston biểu diễn năm 2009. | |
Tên khai sinh | Whitney Elizabeth Houston |
Nghệ danh | Whitney Houston |
Sinh | 9 tháng 8, 1963 |
Nguyên quán | East Orange, New Jersey, Mỹ |
Mất | 11 tháng 2, 2012 (48 tuổi) |
Nghề nghiệp | ca sĩ, diễn viên, nhà sản xuất phim, người mẫu |
Thể loại | Pop, R&B, Soul, Gospel |
Năm hoạt động | 1984–2012 |
Hãng đĩa | SonyBMG/Arista |
Website | WhitneyHouston.com |
Cô là một trong nữ ca sĩ thành công và có ảnh hưởng nhất mọi thời đại, được đánh giá là nữ ca sĩ bán được nhiều đĩa thứ tư trong nền công nghiệp âm nhạc Mỹ, chỉ sau Barbra Streisand, Madonna và Mariah Carey[1]. Thể loại nhạc chủ yếu của cô là các bản ballad trữ tình và nhạc Pop-Dance sôi động nhờ vào chất giọng truyền cảm mà vô cùng khỏe khoắn và được biết đến với danh hiệu The Voice[2][3]. Whitney là nghệ sĩ đầu tiên và duy nhất có 7 đĩa đơn liên tiếp đạt vị trí quán quân trong bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Mỹ. Với 11 đĩa đơn quán quân, cô chỉ đứng sau Mariah Carey (18) và Madonna (12) trong giới nữ ca sĩ.
Whitney Houston là một trong những nghệ sĩ Mỹ đầu tiên thành công trên MTV, cùng với Michael Jackson và Madonna[4][5]. Ca khúc cover lại của Dolly Parton năm 1992 mang tên "I Will Always Love You" (ca khúc nhạc phim của The Bodyguard) trở thành một trong những ca khúc bất diệt trong lịch sử âm nhạc và lập kỷ lục là đĩa đơn bán chạy nhất của nữ ca sĩ từ trước đến nay[6]. Sau này, cô mở rộng sự nghiệp sang cả lĩnh vực điện ảnh và kinh doanh, tự mình gây dựng lên nhiều phòng thu và sản xuất đĩa nhạc trong khi vẫn theo đuổi nghiệp chính của mình.
Những năm 2000, đời tư của Whitney Houston trở thành đề tài tranh cãi toàn cầu từ cuộc hôn nhân của cô với Bobby Brown đến việc lạm dụng thuốc phiện... tất cả trở nên rõ ràng trên các mặt báo. Doanh số thu âm của cô trong thời kỳ này giảm rõ rệt. Thế nhưng Houston vẫn vượt qua giai đoạn khủng hoảng đó một cách thành công. Tìm đến với âm nhạc, cô lại tiếp tục thu âm một album mới sẽ ra mắt khán giả trong thời gian sớm nhất có thể.
Mục lục[ẩn] |
[sửa] Tiểu sử
[sửa] Thơ ấu
Whitney Houston sinh ra tại Newark, New Jersey trong gia đình có bố là John và mẹ là Cissy Houston. Ở tuổi 11, Houston đã bắt đầu tập tành hát hò theo chân của mẹ, bà ngoại và người cậu của mình. Cô bé Houston từng tự tin trình diễn solo trong dàn nhạc của nhà thờ cho đến một ngày tài năng của cô được khám phá bởi một nhà sản xuất có tên Michael Zager. Ông này ngay lập tức mời cô ký một hợp đồng nhưng cô từ chối mà tiếp tục hát đệm cho mẹ của mình.Đầu những năm 1980, cô bắt đầu xuất hiện trước công chúng trong vai trò là một người mẫu thời trang cho rất nhiều chương trình quảng cáo của các tạp chí danh tiếng trong đó có Seventeen. Trong những năm làm người mẫu, cô vẫn tiếp tục sự nghiệp âm nhạc của mình khi hợp tác với các nhà sản xuất như Michael Bienhorn, Bill Laswell và Martin Bisi.
Kể từ lần đầu tiên được mời ký hợp đồng, Houston từng được chiêu dụ nhiều lần (từ Michael Zager năm 198 đến Elektra Records năm 1981) và vào năm 1983, một đại diện của hãng A&R đến từ Arista chứng kiến Houston biểu diễn với mẹ trong một hộp đêm ở thành phố New York, ông liền thuyết phục Houston về đầu quân cho hãng của ông. Lần đó, Houston đã đồng ý ký. Album đầu tay của cô phải mất đến 2 năm mới hoàn thành.
[sửa] Những bản nhạc dance sôi động
Album đầu tay được đặt theo tên của cô, Whitney Houston phát hành năm 1985 ban đầu chỉ nhận được sự quan tâm hời hợt của khán giả cho đến khi ca khúc "You Give Good Love" nằm trong top 5 của bảng xếp hạng Billboard Hot 100, album mới thật sự trở thành một hiện tượng trong giới âm nhạc. Lúc đó, Whitney Houston đứng đầu các bảng xếp hạng album, đem những ca khúc nổi tiếng khác như "Saving All My Love For You", "How Will I Know" và "Greatest Love of All" (đều ở vị trí quán quân) đến với khán giả tại nhiều quốc gia như Mỹ, Anh, châu Âu, châu Á, Úc và châu Phi. Tổng cộng album bán được hơn 13 triệu bản; và trong vòng 13 năm, nó là album đầu tay bán chạy nhất của một nữ nghệ sĩ. Đến thời điểm hiện tại, album đã bán được hơn 13 triệu bản chỉ tính riêng tại thị trường Mỹ, tổng cộng đạt 24 triệu bản trên toàn thế giới[7]. Năm 1986, Whitney Houston tổ chức tour lưu diễn vòng quanh thế giới đầu tiên trong sự nghiệp với tên gọi The Greatest Love Tour. Cũng năm đó cô đã giành giải Grammy đầu tiên với danh hiệu "Giọng nữ Pop xuất sắc nhất" dành cho "Saving All My Love For You"; hai giải âm nhạc Mỹ: "Video Soul/R&B được yêu thích nhất" ("Saving All My Love For You") và "Ca khúc Soul/R&B được yêu thích nhất" ("You Give Good Love"); một giải MTV Video Music Awards: "Video xuất sắc nhất của nữ nghệ sĩ" dành cho "How Will I Know"".Một năm sau đó, Whitney Houston cho ra đời album thứ hai mang tên Whitney (1987), bao gồm hầu hết những ca khúc nhạc Pop giống như album tiền nhiệm của nó. Ban đầu đứng vị trí thứ nhất tại nhiều nước trên thế giới trong đó có Mỹ và Anh, tại những đất nước này cô trở thành nghệ sĩ nữ đầu tiên đặt chân được vào hầu hết các bảng xếp hạng danh tiếng tại nhiều quốc gia. Album thứ hai này bán được 12 triệu bản trên toàn thế giới (trong đó có 8 triệu bản tính riêng tại Mỹ). Các ca khúc hit như "I Wanna Dance with Somebody (Who Loves Me)", "Didn't We Almost Have It All", "So Emotional" và "Where Do Broken Hearts Go" đều đứng quán quân tại Mỹ và thực sự chinh phục được trái tim của khán giả.
Album thứ 3 của cô, I'm Your Baby Tonight (1990), gồm những ca khúc hát và sản xuất chung với Babyface, Stevie Wonder, và Luther Vandross, chiếm vị trí thứ 3 trên bảng xếp hạng Billboard 200 của Mỹ. Mặc dù không đạt được thành công về mặt thương mại như hai album trước nhưng nhạc phẩm này cũng bán được 8 triệu bản trên toàn thế giới. Một năm sau đó, Houston bắt tay vào thực hiện chuyến lưu diễn có tên gọi I'm Your Baby Tonight Tour mà tạp chí Rolling Stone bầu chọn là "Chuyến lưu diễn tồi tệ nhất của năm"[8] .
[sửa] Những bản ballad phim trữ tình
Một điểm đáng chú ý trong sự nghiệp của Houston đó là sự đóng góp của những ca khúc nhạc trong phim mà cô rất thành công. Không những ngay cả những bộ phim đó thể hiện sự xuất sắc trên thị trường điện ảnh mà chính những ca khúc nhạc trong phim cũng trở thành đề tài khen ngợi của các nhà phê bình cũng như khán giả. Bản nhạc trong The Bodyguard Soundtrack là một ví dụ, nó đã trở thành album nhạc phim bán chạy nhất mọi thời đại: hiện tại doanh số bán ra là 37 triệu bản trên toàn thế giới trong đó có 17 triệu bản tính riêng tại Mỹ. Album giành giải "Album của năm" và "Ghi âm của năm" tại giải thưởng Grammy. Nhạc phẩm thành công nhất trong album là "I Will Always Love You", đạt vị trí quán quân tại Mỹ trong 14 tuần liên tiếp (một kỷ lục tại Mỹ lúc bấy giờ) và tại Anh trong 10 tuần thực sự được công chúng yêu nhạc toàn thế giới đánh giá là một trong những bản tình ca bất diệt. Hai ca khúc tiếp theo là "I'm Every Woman" và "I Have Nothing" đều nằm trong tốp 5 tại Mỹ. Tiếp theo thành công của bộ phim The Bodyguard, Houston thực hiện chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới vào năm 1993, trong đó có một số buổi hòa nhạc đặc biệt tại châu PhiWhitney Houston thu âm 3 ca khúc làm nhạc trong bộ phim Waiting to Exhale (đạt doanh thu 60 triệu USD) là "Exhale (Shoop Shoop)" (#1), "Count On Me" (#8) và "Why Does It Hurt So Bad" (#26). Bản soundtrack cho tác phẩm điện ảnh The Preacher's Wife trong đó có phần thu âm thể loại gospel đầu tiên của Houston bán được 2,5 triệu bản trên toàn nước Mỹ trong tháng 1 năm 2006. Đây là album nhạc gospel bán chạy nhất mọi thời đại.
My Love Is Your Love (1998), album studio thứ 4 của Houston, bao gồm nhiều ca khúc mới. Được thu âm và phối khí chỉ trong vòng 6 tuần, My Love Is Your Love "nhận" được nhiều lời chỉ trích nặng nề nhưng vẫn đạt được doanh số cao trên thị trường (12 triệu bản trên toàn thế giới trong đó có 5 triệu bản tính riêng tại thị trường Mỹ). Houston là một trong số những nhà sản xuất chính của album đậm chất R&B và hip-hop này, khác hoàn toàn so với những nhạc phẩm trước đây. Ca khúc đầu tiên, "When You Believe", hát chung với Mariah Carey được thu âm làm nhạc phim cho bộ phim hoạt hình Hoàng tử Ai Cập đứng trong danh sách top 20 và giành một giải thưởng của viện Hàn lâm.
[sửa] Sự nghiệp tụt dốc
Tháng 12 năm 2002 Whitney Houston phát hành album studio thứ năm, Just Whitney. Album có sự hợp tác với chồng cô lúc bấy giờ, Bobby Brown cũng như một số ca sĩ khác như Missy Elliott. Mặc dù đạt vị trí #9 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 200 nhưng toàn bộ các đĩa đơn được phát hành từ album là "Whatchulookinat", "One of Those Days", "Try It on My Own" đều không thể lọt nổi vào tốp 40 của bảng xếp hạng Billboard Hot 100. Tuy được cấp giấy chứng nhận album bạch kim nhưng Just Whitney vẫn là album studio bán chậm nhất trong sự nghiệp của diva Whitney. Chỉ sau hai năm từ khi album Whitney: The Greatest Hits nhưng Just Whitney đã "lọt" ra ngoài bảng xếp hạng 75 album của Anh quốc (#76). Whitney Houston chỉ phát hành một đĩa đơn duy nhất tại Anh là Whatchulookinat đạt vị trí #13 và chỉ có 2 tuần nằm trong tốp 40.[sửa] Những vấn đề trong đời tư
[sửa] Thuốc phiện và tình hình sức khỏe
Ngay trước khi cô cho ra mắt Whitney: The Greatest Hits hồi tháng 4 năm 2000, đội an ninh tại sân bay Hawaii đã phát hiện ra chất gây nghiện trong hành lý của Houston và Bobby Brown nhưng họ đã lên máy bay và bay mất trước khi cảnh sát kịp bắt giữ. Không có bản án nào được thi hành nhưng tin đồn về vụ việc này lan ra nhanh chóng. Lúc đó, Houston trở nên nổi tiếng với những đề tài nóng hổi liên quan đến vụ việc, cô thường xuyên phải hủy hết buổi hòa nhạc này đến buổi hòa nhạc khác. Sau đó khoảng vài tháng, Houston xuất hiện trước báo giới bàn luận về thuốc phiện và các chất gây nghiện nhưng cô bác bỏ hoàn toàn việc sử dụng cocaine. Thế nhưng đến tháng 3 năm 2004, cô đã không thể giữ được bí mật khi buộc phải nhập trung tâm cai nghiện. Một năm sau, Houston lại tiếp tục phải dành thời gian trong trung tâm phục hồi chức năng vì tác hại của ma túy.[sửa] Vụ kiện cha đẻ
Mối quan hệ không suôn sẻ giữa Whitney Houston và cha của cô, John Houston, bắt đầu vào năm 2002 khi công ty của John Houston kiện Whitney vì 100 triệu đôla - số tiền mà theo họ, họ phải vay để giúp đỡ sự nghiệp của Houston cũng như những câu chuyện thêu dệt xung quanh cuộc sống của nữ ca sĩ này[9]. Cả hai bố con đều xuất hiện trên truyền hình và chỉ trích lẫn nhau[10]. Sự việc chỉ tạm thời chấm dứt khi ông bố John Houston qua đời tháng 2 năm 2003.[sửa] Vấn đề về tài chính
Ngày 3 tháng 1 năm 2007, tờ New York Post công bố "trong một bản báo cáo tài chính năm 2006, Houston gần như vuột mất buổi trình diễn trị giá 6 triệu đôla, 10 mẫu đất (khoảng 4 ha) tại hạt Morris vì khoản nợ hàng chục ngàn đôla tiền thuế". Bài báo sau đó cung cấp thêm nhiều thông tin chi tiết về việc Houston đã bán hàng trăm bộ cánh biểu diễn trên sân khấu tại một phiên đấu giá nhằm kiếm đủ số tiền để trả nợ. Tờ The Toronto Star thì cho biết ngày 4 tháng 1 năm 2007, đồ đạc được bán đấu giá để "che đậy những khoản phí chưa được chi trả"[11]. Còn hãng tin Reuters cũng công bố trong ngày hôm đó rằng Houston "bị buộc phải bán quần áo, nhạc cụ để trả nợ cho một cửa hàng quần áo" theo yêu cầu của tòa án cấp cao New Jersey[12] .Houston mất quyền sở hữu khu đất ở Atlanta sau khi thế chấp hồi tháng 11 năm 2006. Cũng trong tháng đó, theo thông tin của Associated Press (AP), ngôi nhà của cô ở Mendham, New Jersey, lúc đó trị giá $5,6 triệu, cũng buộc phải bán vào tháng 1 năm 2007 vì số tiền thế chấp và thuế trị giá 1 triệu đôla chưa được bồi hoàn.
[sửa] Cuộc sống gia đình
Houston cưới ca sĩ nhạc R&B, Bobby Brown, năm 1992. Ngày 4 tháng 3 năm 1993, đôi uyên ương này vui mừng chào đón sự ra đời của cô con gái đầu lòng. Hai người đặt tên bé là Bobbi Kristina Houston Brown - một cái tên có cả họ tên của cha mẹ. Tháng 9 năm 2006, có tin đồn cho rằng cuộc hôn nhân của họ đang bên bờ vực thẳm, họ chuẩn bị ra tòa ly dị. Cuối cùng tin đồn cũng trở thành sự thật khi chính Houston là người nộp đơn lên tòa án, bắt đầu một chặng đường đầy khó khăn về mặt tinh thần. Theo đại diện của cô, Houston đã nộp đơn ly dị Brown vào ngày 8 tháng 9 năm 2006. Tuy nhiên, luật sư của Brown, Phaedra Parks, khẳng định rằng hành động trên hiện tại chỉ là ly thân chứ không thể kết luận là một bản thử nghiệm ly hôn để "chưng cầu ý dân". Trong hồ sơ ly hôn, Houston đòi quyền nuôi đứa con gái chung giữa hai người. Nhưng cuối cùng vào ngày 16 tháng 10 năm 2006, tòa án cũng chấp nhận đơn xin ly hôn của cô.Houston được toàn quyền nuôi con. Ngày 24 tháng 4 năm 2007 là ngày chính thức cuộc hôn nhân của họ kết thúc. Ngày 26 tháng 4 năm 2007, Bobby Brown cũng đệ đơn lên tòa án cấp cao quận Cam nhằm chấm dứt hoàn toàn hôn nhân với Houston. Trong hồ sơ, anh khẳng định toàn bộ cuộc hôn nhân là một sự giả dối và anh hoàn toàn có khả năng chăm sóc con. Nhưng trên thực tế, Brown hiện đang là một người vô gia cư và trong tình trạng hoàn toàn suy thoái. Phiên tòa tiếp theo sẽ diễn ra vào tháng 6 năm 2007.
[sửa] Cái chết
Whitney Houston bất ngờ đột tử vào ngày 11 tháng 2 năm 2012 ở tuổi 48, hiện cái chết của bà vẫn đan g nghiên cứu, hiện gia đình đang quyết định sẽ để bà an táng gần mộ của ông vua nhạc pop Michael Jackson[sửa] Danh sách các đĩa hát
Xem bài chi tiết Album của Whitney Houston[sửa] Đĩa đơn quán quân
Năm | Đĩa đơn | Vị trí cao nhất trong bảng xếp hạng | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
R&B | Adult | Dance | ||||||
1985 | "Saving All My Love For You" | 1 | 1 | 1 | - | 1 | 20 | 18 |
1986 | "How Will I Know" | 1 | 1 | 1 | 3 | 5 | 2 | 26 |
1986 | "Greatest Love of All" | 1 | 3 | 1 | - | 8 | 1 | 21 |
1986 | "I Wanna Dance with Somebody (Who Loves Me)" | 1 | 2 | 1 | 1 | 1 | 1 | 1 |
1987 | "Didn't We Almost Have It All" | 1 | 2 | 7 | - | 14 | 27 | 20 |
1987 | "So Emotional" | 1 | 5 | 8 | 1 | 5 | 26 | - |
1988 | "Where Do Broken Hearts Go" | 1 | 2 | 1 | - | 14 | 48 | - |
1988 | "One Moment In Time" | 5 | 5 | 1 | - | 1 | 54 | 1 |
1990 | "I'm Your Baby Tonight" | 1 | 1 | 7 | 17 | 5 | 6 | 5 |
1990 | "All the Man That I Need" | 1 | 1 | 1 | - | 13 | 63 | 37 |
1992 | "I Will Always Love You" | 1 | 1 | 1 | 1 | 1 | 1 | 1 |
1995 | "Exhale (Shoop Shoop)" | 1 | 1 | 5 | - | 11 | 18 | 26 |
Tổng | Quán quân | 11 | 6 | 8 | 3 | 4 | 3 | 3 |
[sửa] Các giải Grammy
Năm | Đề cử | Tác phẩm được đề cử | Kết quả |
---|---|---|---|
1986 | Trình diễn giọng Pop nữ xuất sắc nhất | Saving All My Love For You | Đoạt giải |
1986 | Trình diễn giọng R&B nữ xuất sắc nhất | You Give Good Love | Đề cử |
1986 | Album của năm | Whitney Houston | Đề cử |
1987 | Thu âm của năm | Greatest Love of All | Đề cử |
1988 | Trình diễn giọng Pop nữ xuất sắc nhất | I Wanna Dance with Somebody (Who Loves Me) | Đoạt giải |
1988 | Trình diễn giọng R&B nữ xuất sắc nhất | Didn't We Almost Have It All | Đề cử |
1988 | Album của năm | Whitney | Đề cử |
1989 | Trình diễn giọng Pop nữ xuất sắc nhất | One Moment In Time | Đề cử |
1991 | Trình diễn giọng Pop nữ xuất sắc nhất | I'm Your Baby Tonight | Đề cử |
1992 | Trình diễn giọng Pop nữ xuất sắc nhất | All The Man That I Need | Đề cử |
1992 | Trình diễn giọng R&B nữ xuất sắc nhất | I Belong To You | Đề cử |
1994 | Album của năm | The Bodyguard soundtrack | Đoạt giải |
1994 | Thu âm của năm | I Will Always Love You | Đoạt giải |
1994 | Trình diễn giọng Pop nữ xuất sắc nhất | I Will Always Love You | Đoạt giải |
1994 | Trình diễn giọng R&B nữ xuất sắc nhất | I'm Every Woman | Đề cử |
1997 | Album của năm | Waiting to Exhale soundtrack | Đề cử |
1997 | Hợp tác giọng Pop xuất sắc nhất | Count On Me (với Cece Winans) | Đề cử |
1997 | Trình diễn giọng R&B nữ xuất sắc nhất | Exhale (Shoop Shoop) | Đề cử |
1997 | Bài hát hay nhất được viết cho phim hoặc chương trình truyền hình | Count On Me | Đề cử |
1998 | Album R&B xuất sắc nhất | The Preacher's Wife soundtrack | Đề cử |
1998 | Trình diễn giọng R&B nữ xuất sắc nhất | I Believe In You And Me | Đề cử |
2000 | Trình diễn giọng R&B nữ xuất sắc nhất | It's Not Right But It's Okay | Đoạt giải |
2000 | Hợp tác giọng Pop xuất sắc nhất | When You Believe (với Mariah Carey) | Đề cử |
2000 | Album R&B xuất sắc nhất | My Love Is Your Love | Đề cử |
[hiện]Một số giải thưởng lớn |
---|
[sửa] Chú thích
- ^ "Gold and Platinum - Top Selling Artists". Recording Industry Association of America.
- ^ “Transformers: Whitney Houston”. AOL Black Voices (12 tháng 2 năm 2007). Truy cập 15 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Christina performs on the 2001 BET Awards in a special tribute to Whitney Houston”. Billboard Magazine (19 tháng 6 năm 2007). Truy cập 15 tháng 1 năm 2008.
- ^ A History of Soul Music. VH1. 18 tháng 10 năm 2007.
- ^ "Whitney Houston". 'Biography'. The Biography Channel. 18 tháng 10 năm 2007.
- ^ Whitney Houston
- ^ http://www.whitneyhouston.com
- ^ Rolling Stone, tháng 12 năm 1991.
- ^ "'Celebrity Justice' Producer Discusses Whitney Houston Trial", CNN, December 5, 2002.
- ^ Transcript of Primetime Live feature, ABC, December 4, 2002; hosted at fan site Whitney-Fan.com
- ^ http://www.thestar.com/artsentertainment/article/167604
- ^ http://today.reuters.com/news/articlenews.aspx?type=peopleNews&storyID=2007-01-03T221146Z_01_N03276278_RTRIDST_0_PEOPLE-HOUSTON-AUCTION-DC.X
- Nguồn: Bách khoa toàn thư mở
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét