Con người sinh ra tự do nhưng ở đâu cũng có xiềng xích. J.J. ROUSSEAU.

30 thg 9, 2013

Bài Hành Ca Của Một Kẻ Hào Hoa
Mười Một
Những Chàng Trai Buồn Tẻ
              Thơ Nguyễn Thanh Hiện




tranh DELFINA BLAQUIER


rồi tôi cũng đến được nơi tôi muốn đến
những chàng trai da ngăm đen đã chờ tôi ở đó
những chàng trai tuy buồn tẻ nhưng lại thông hiểu các thứ tiếng nói trên các châu lục
ở quê tôi chỉ loài chim ấp muỗi là thông hiểu các thứ tiếng nói các châu lục, bỡi đám con chúng sinh ra là phải đi kiếm ăn khắp thế giới
đám con chúng vừa sinh ra là liền được dạy dỗ thông hiểu các thứ tiếng nói trên các châu lục


làm như thể tôi đã hẹn bọn họ tự những trăm năm trước
nỗi nhớ nhung là rất cần an ủi
cuối cùng thì anh cũng đã đến
những chàng trai buồn tẻ bắt đầu nói


và tôi cũng bắt đầu nhìn thấy những rừng cây, những bụi rậm, ao hồ, sông, thác, rừng đen, rừng đen…lũ chim trời vừa lượn lờ trên bầu trời xanh thâm, vừa hát, một thứ màu đen bi thảm như đang xâm chiếm nghĩ ngợi của tôi, dẫu trí tuệ con người có phác vẽ được những nét huy hoàng, những con đường dẫn đến miền đất mới, gương mặt thế giới lấp lánh giữa những buổi bình minh có những ánh mắt nhìn thấu đường đi mặt trăng mặt trời, nhưng những huy hoàng là chẳng thể làm lành lại những vết thương trên lưng đám ngựa hoang đã được mang đến miền đất mới để thồ vàng, thồ kim cương, thồ những tham vọng của bọn nhà giàu, đám ngựa hoang còn sống sót đã chết gìà tự những trăm năm trước là những chàng trai buồn tẻ đã hẹn gặp tôi


nhưng những chàng trai buồn tẻ nói tháng năm vẫn là thứ dấu tích hằn sâu trong trí nhớ, chúng tôi đi khi lũ vịt trời còn đang vui đùa trên những hồ nước thêng thang, và những người con gái thì bước ra khỏi những bụi rậm nắm lấy bàn tay chúng tôi như thể đấy là lần cuối được nắm lấy  bàn tay của người mình yêu, và như thể là có lời mách bảo của tổ tiên chúng tôi, những mách bảo chỉ còn có thể nhìn thấy qua những chiếc mặt nạ đầy sắc màu u uẩn, như nghe được những lời mách bảo của tổ tiên về việc giữ gìn nòi giống, chúng tôi vội vã ôm lấy những người con gái vừa bước ra khỏi những bụi rậm để làm tình ngay trên thứ mặt đất như đang mang trong mình thứ màu đen buồn thảm


bầu trời như đang âm ỉ chứa một thứ thông điệp mới nào đó về mưa nắng, tận phía mờ xa của quá khứ, những kẻ đã chết vẫn thư thả gác tay lên niềm vĩnh cửu, rừng đen, rừng đen…đâu đó như đang vang lên tiếng hát của lũ vịt trời, rốt cuộc thì tôi cũng chẳng có thứ gì để đem ra an ủi những chàng trai buồn tẻ, nhưng những năm sau đó thì tôi đã gặp lại bọn họ, những chàng trai vẫn buồn, bọn họ đã đưa tôi đi gặp hết thảy những người đã chết, đấy là lúc những khúc hát trong trí nhớ tôi đã trở thành thi ca chép trên giấy

26 thg 9, 2013

Triết Gia Và Thi Sĩ

                            
            BÙI VĂN NAM SƠN

Trong Bùi Giáng, sơ thảo tiểu truyện (i), nhà phê bình văn học Đặng Tiến nhận định có tính tổng kết về văn nghiệp Bùi Giáng như sau : “ Trên cơ bản, Bùi Giáng là nhà thơ ”. Thế nào là “ trên cơ bản ” ? Tôi không muốn hiểu câu nhận định trên đây theo nghĩa thông thường của sự phân loại, đánh giá về văn nghiệp của một tác giả : Bùi Giáng trước hết và trên hết, hay, tựu trung, là một nhà thơ, nói khác đi, phần có chân giá trị là sự nghiệp thi ca của ông, còn các phần còn lại là thứ yếu, không “ cơ bản ”. Thật ra, trong khối lượng đồ sộ và đa tạp của Bùi Giáng “ văn xuôi ”, dù khó tính đến mấy, ta vẫn có thể chắt lọc ra không ít những trang tuyệt bút từ các Giảng luận văn học (Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan đến Phan Văn Trị / Tôn Thọ Tường và Tản Đà), các tùy bút văn chương, các nghị luận triết học, đó là chưa kể một số bản dịch thành công khá đặc biệt. Trong chừng mực nào đó, chúng có giá trị tự tại, độc lập với việc có hoặc không có “ Bùi Giáng nhà thơ ”. Vì thế, tôi muốn thử hiểu nhận định trên đây theo một cách khác : dù là văn xuôi hay thơ, Bùi Giáng vẫn “ trên cơ bản, là nhà thơ ”, theo nghĩa : Bùi Giáng có ý thức sử dụng ngôn ngữ theo nghĩa rộng như là “ ngôn ngữ thi ca ”. Chính điều này tạo nên nét riêng biệt, độc sáng của thi văn Bùi Giáng, và đồng thời mời gọi ta hãy đến với Bùi Giáng theo cách hiểu ấy.
Như ai cũng dễ nhận ra, và như chính Bùi Giáng đã thừa nhận, bút pháp và thơ của Bùi Giáng thoạt đầu xuất phát từ cội nguồn Thơ Mới. Nhưng, do một sự tương ứng sâu thẳm nào đó và cũng là một cơ duyên, việc Bùi Giáng tiếp cận và tiếp thu tư tưởng, nhất là triết học về nghệ thuật, của Heidegger, theo chúng tôi, là một trường hợp khá hy hữu : nó thanh tân, trọn vẹn và chung thủy đến lạ thường. Sự gặp gỡ này còn có sự hiện diện của một nhân vật thứ ba có ý nghĩa quyết định : thi sĩ Đức Friedrich Hölderlin. Heidegger là triết gia, Hölderlin là thi sĩ, sống cách nhau ngót hơn một thế kỷ, nhưng thật lạ lùng khi Heidegger từng nhiều lần nhấn mạnh rằng ông không còn có thể phân biệt mình với Hölderlin được nữa (ii! Tự nhận mình đồng nhất với một người khác, nhưng không ai nghĩ rằng Heidegger tự “ đánh mất mình ” trong mối quan hệ lạ thường ấy. Ta cũng có thể nói hệt như thế về mối quan hệ tay ba : Heidegger – Hölderlin – Bùi Giáng ! Trong bài tham luận ngắn này, chúng tôi muốn lưu ý đến mối quan hệ lạ thường này như một nỗ lực góp phần soi sáng quan niệm sống, sáng tác và suy tưởng của Bùi Giáng.

1. Triết gia – thi sĩ :


Quyển Giảng giải về Thơ Hölderlin của Heidegger (iii) (tập 4 trong Toàn tập) chỉ ngót 200 trang, nhưng đã được Bùi Giáng dịch và diễn giải hơn 1000 trang, chia làm hai tập : Lời Cố quậnLễ Hội Tháng Ba. Có thể nói đây là công trình văn xuôi quan trọng nhất và cũng phức tạp, sâu sắc nhất của Bùi Giáng. Theo một cách nói quen thuộc, chính ở đây, Bùi Giáng đã đi từ “ tự phát ” đến “ tự giác ” trong quan niệm sống và sáng tác văn chương.
Hölderlin (1770-1843) là một trong những thi sĩ nổi tiếng nhất của nước Đức, bạn đồng học và có ảnh hưởng sâu đậm đến hai khuôn mặt lớn của triết học Đức : Schelling và Hegel. Đáng chú ý : Hölderlin cũng có định mệnh tương tự Bùi Giáng : hơn 30 năm cuối đời sống trong trạng thái “ điên tam đảo tứ ” ! Ta biết rằng Heidegger có những bài giảng đầu tiên về Hölderlin vào những năm 1934-35 (ngay trước khi soạn luận văn nổi tiếng : Nguồn gốc của tác phẩm nghệ thuật (iv)). Ông tiếp tục bàn về Hölderlin cho tới 1946, được tập hợp lại thành sáu luận văn trong tác phẩm vừa kể. Bùi Giáng nhận định : “ Mười năm sau Sein und Zeit [Tồn tại và Thời gian, 1927, tác phẩm chính của Heidegger], Hölderlin xuất hiện trên hầu hết những cuốn sách của Heidegger mỗi phen tư tưởng của Heidegger bước tới điểm quyết định ”. “ Riêng cuốn sách Giảng giải về thơ Hölderlin này mang một ý nghĩa trầm trọng và sâu xa như thế nào trên con đường tư tưởng của Heidegger, thành tựu một cái gì cho Tư tưởng Tây phương, chuẩn bị cho một cuộc hội thoại lặng lẽ mênh mông nào khác, những người theo dõi Heidegger ắt đã từng nhận thấy ”. “ Người nào đã đọc kỹ từ lâu cuốn sách dị thường ấy của ông Heidegger, ắt đã rõ nguyên do lối sắp đặt thứ tự các bài giảng… Và cũng không ngạc nhiên gì nhiều trước lối dịch và giảng dường như kỳ dị của dịch giả ”. Bùi Giáng viết tiếp : “ Nhan đề ấy nói gì ? Có thể hiểu cưỡng bức theo hai cách :
1. Cuộc tiếp cận (của chúng ta với) Hölderlin
2. Cuộc tiếp cận của Hölderlin
Theo nghĩa thứ hai là thế nào ? Hölderlin tiếp cận cái gì ? Ấy là : tiếp cận Uyên Nguyên, đi về cận lập với Uyên Nguyên. Sao gọi là Uyên Nguyên ? Theo nghĩa thứ nhất : chúng ta tiếp cận ? Đi về tiếp cận ? Nhưng Hölderlin không phải là một cá nhân. Nguồn thơ thi dựng của ông là một nguồn Thi nhiên hi hữu. Hölderlin là Nguồn Thơ ấy. Vậy thì tiếp cận Hölderlin là tiếp cận nguồn thơ ấy. Nhưng tại sao tiếp cận mà không tắm mình vào ? Vì đó là Uyên Nguyên và trong khi chúng ta dò dẫm trên bước tiến lại gần, thì Uyên Nguyên cũng đi về với chúng ta trong thể lệ riêng biệt : gần gũi mà xa xôi ” (v)
Đàng sau cách diễn đạt bay bổng nhưng khá tối tăm ấy là diễn trình tư tưởng của Heidegger được Bùi Giáng theo dõi sát sao và thể nhập trọn vẹn. Có thể chia sự “ tiếp cận ” của Heidegger với thơ Hölderlin làm hai thời kỳ : thời kỳ sớm từ 1934 đến 1939 và thời kỳ muộn là 1939-1946, với sự khác biệt quan trọng.
Thời kỳ sớm nổi bật với hai luận văn : “Hölderlin và bản chất của thi ca” (Bùi Giáng dịch và giảng trong Lời Cố quận, An Tiêm, 1972, tr. 146-242) và “Siêu hình học nhập môn” (được Bùi Giáng dịch và giảng một phần trong Trăng Châu Thổ (Quế Sơn, Võ Tánh, 1969, tr. 207-308).
Ở thời kỳ này, Heidegger xem Hölderlin là một thi sĩ quan trọng, nhưng không quan trọng với tư cách thi sĩ, mà như là triết gia - thi sĩ, nói khác đi, tuy Hölderlin làm thơ, nhưng nội dung của nó không phân biệt với triết gia. Thật ra, những đại thi hào Tây phương như Homer, Sophockles, Virgil, Dante, Shakespeare và Goethe thực hiện bản chất của thi ca còn phong phú hơn cả Hölderlin, nhưng tại sao Heidegger lại tập trung vào Hölderlin ? Lý do là vì, theo ông, Hölderlin là nhà thơ làm thơ về thi ca. Ông gọi Hölderlin là “ thi sĩ của những thi sĩ ” (vi) không theo nghĩa tôn vinh về đẳng cấp mà chỉ vì Hölderlin là nhà thơ của bản thân thi ca. Hölderlin đã viết những câu thơ về bản thân thi ca như thế nào, trong chừng mực là một thứ “ siêu-thica ” mang đầy đủ tư cách của một nhà tư tưởng ? Xin điểm lại ngắn gọn năm điểm :
-  Hai điểm đầu tiên có vẻ mâu thuẫn với nhau. Hölderlin gọi thi ca là công việc “ hồn nhiên thơ dại nhất ” (vii), nhưng đồng thời cũng là công việc “ nguy hiểm nhất ” (viii). Vì lẽ thi ca nảy sinh trong ngôn ngữ, nên câu hỏi có thể đặt lại là : ai làm chủ ngôn ngữ và ngôn ngữ hiểm nguy theo nghĩa nào ? Theo Heidegger, ngôn ngữ là cái gì quá “ thân thiết ” với con người, nó có thể “ thôi miên ” ta ở vẻ ngoài khiến ta dễ bỏ qua căn cơ, nền tảng. Sự hàm hồ của ngôn ngữ làm cho cái không bản chất trở thành bản chất, đồng thời biến bản chất thành cái gì nông nổi, bì phu. Đối diện với hiểm nguy ấy, Hölderlin đã trả giá bằng sự điên loạn của mình, một sự cố không thể điều trị hay cứu chữa bằng y học. “ Điên loạn là số phận của Hölderlin ”, vì “ những hoa trái đầu mùa bao giờ cũng thuộc về phần của thần linh ” và Hölderlin là “ hoa trái bi kịch nhất trong lịch sử nước Đức ”. Phải chăng ta cũng có thể nói như thế về Bùi Giáng ?
-  Điểm thứ ba : con người chỉ hiện hữu trong ngôn ngữ, và ngôn ngữ bao giờ cũng hiện hữu trong đối thoại, trong “ nói ” và “ nghe ”. Đó là đặc trưng của con người, bởi chỉ con người mới mang thời tính, tức tìm thấy chính mình ngay trong lòng sự vật khi chúng được từng bước khai mở bằng một cách nào đó. Ngôn ngữ là nơi ta thể nghiệm : hoặc có thể đi sâu vào được vùng ẩn mật, khép kín của thực tại khôn dò, hoặc chỉ phải dừng lại ở bề mặt của sự hiện diện thô sơ.
-  Điểm thứ tư là từ chính lời thơ của Hölderlin : “ những gì bền vững là do thi sĩ thiết lập nên ” (ix). Những gì tưởng như vững bền, thường trụ trong thế gian đều cần được “ thiết lập nên, nếu không, chúng sẽ bị chìm lấp, lẫn lộn trong mớ hỗn mang ”. Để sự vật hiển hiện ra cho ta, ta phải đứng vào vùng ánh sáng thích hợp. Như thế, con người không chỉ thụ động ngồi nhìn sự vật chung quanh, rồi gọi tên chúng. Ngược lại, chính thi sĩ đặt tên cho chúng, và chỉ có việc đặt tên này mới thiết lập nên sự vật. Sự vật và bản thân Tồn tại không bao giờ phơi bày mà phải được sáng tạo và thiết lập. Thi sĩ có vai trò trung tâm trong sự hiện hữu của con người (x).
-  Và sau cùng, điểm thứ 5, lại từ một câu thơ khác của Hölderlin : “ con người sống trên đời như một thi sĩ ” (xi). Sống như một thi sĩ là sống giữa lòng những gì thiêng liêng, vừa ẩn giấu, vừa vẫy gọi, mang ta đến gần bản chất của sự vật. Sự hiện hữu được thi sĩ tạo dựng và thiết lập là một quà tặng được ban cho ta, bên ngoài quyền năng của cá nhân mỗi người. Cũng thế, thi ca không chỉ là một trò chơi với những từ ngữ và ngữ pháp đã có sẵn, trái lại, cấu tạo nên bản chất của ngôn ngữ, qua đó, cấu tạo nên cả mối quan hệ của một dân tộc với vận mệnh lịch sử của mình. Thi sĩ không tái tạo cái khả kiến, trái lại, làm cho nó trở nên khả kiến. Đó cũng là ý của Hölderlin khi nói về Oedipus, nhân vật thần thoại đã tự móc mắt mình : “ Có lẽ đức vua Oedipus có thừa một con mắt ! ”. Như Heidegger nhận xét : có lẽ Hölderlin cũng có thừa một con mắt ! Hölderlin là thi sĩ của thời đại khốn khó, khi thế giới cũ không còn mà thế giới mới chưa đến. Sự điên loạn của nhà thơ là kết quả của sự canh giữ cô đơn, của việc sáng tạo nên những sự thật mới mẻ, dù không mấy ai hay biết. Như thế, trong thời kỳ này, Heidegger đánh giá cao chất lượng tư tưởng trong thơ Hölderlin : thi sĩ thiết lập nên những nhu cầu thiết yếu và nghiêm trọng, với “ sứ mệnh ” khôi phục lại những gì đã suy tàn, gãy đổ của một thời vàng son quá khứ (như nền “ nghệ thuật lớn ” của “ hệ hình Hy Lạp ”) (xii).
Heidegger viết những lời mạnh mẽ : “ Công việc của chúng ta là mang lại quyền lực cho Hölderlin ”. Nói cách khác, ở đây, thi sĩ và triết gia không còn phân biệt về sứ mệnh ; họ chỉ khác nhau ở tính cách và phương tiện : một bên dùng lối ẩn dụ, ít nhiều tối tăm, một bên sử dụng khái niệm minh nhiên, sáng sủa. Hölderlin là quan trọng, nhưng chưa phải với tư cách là nghệ sĩ mà như là triết gia : “ đứng trên đỉnh núi cao của thời đại, thấu hiểu quá khứ và dự phóng tương lai ”. Ta dễ dàng liên tưởng đến thời kỳ đầu của Bùi Giáng Mưa Nguồn, của Bùi Giáng, Heidegger và tư tưởng hiện đại
“ Đời xiêu đổ nguồn xưa anh trở lại
Giữa hư vô em giữ nhé ngần này…
Sau một Nietzsche bơ vơ, “ mất quê hương ”, Heidegger muốn nhìn thấy nơi Hölderlin hình ảnh và lời kêu gọi của kẻ “ quy hồi cố quận ”, tìm lại được quê hương đã mất.

2. Thi sĩ – triết gia


Vào thời kỳ muộn, qua việc giảng giải các tụng ca Như trong ngày Lễ hộiHồi tưởng (Bùi Giáng : Lễ Hội Tháng Ba, NXB Văn hóa Sài Gòn 2008), Heidegger cho thấy một bước nhận thức sâu hơn về Hölderlin chung quanh bản chất và trách vụ của thi ca. Lần đầu tiên, Hölderlin đích thực xuất hiện “ trên cơ bản là nhà thơ ” (wesentlich als ein Dichter/essentially as a poet) vì Heidegger thừa nhận rằng ông đã được Hölderlin “ dạy dỗ ” về bản chất của thi ca theo ngôn ngữ của cái BỐN (Trời, Đất, Con người và Thần linh).
- Tụng ca Như trong ngày Lễ hội (1800) (xiii) là mới mẻ, phong phú khi mô tả sự nghèo nàn tinh thần của thời đại mà Hölderlin gọi là sự thiếu vắng lễ hội. Trong Hồi tưởng (xiv), ta lắng nghe những nhớ tưởng của thi sĩ về “ những giấc mộng vàng ” (Bùi Giáng : “ Giấc vàng long lanh ”) trong những “ lễ hội ” đã qua. Lễ hội là gì? Là ra khỏi nhịp điệu nhàm chán thường ngày. Là ra khỏi vòng kìm tỏa của sự “ hữu ích ”, “ hữu dụng ” để sống đích thực là chính mình. Trong thời đại của khoa học - kỹ thuật - công nghệ, con người bị “ đóng khung ” (Gestell), khiến cho sự “ ưu tư ” (Sorge/Care) khó trở thành sự ưu tư đích thực. Thời hiện đại không thể có “ lễ hội ”, vì ta không còn từ ngữ, không còn ngôn ngữ để làm việc ấy nữa (Bùi Giáng : “ Tôi bước qua từ ngữ rụng hai lần ”). Đó là cảm thức sâu sắc rằng bản chất cao nhất của thi ca, của người “ thi sĩ tương lai ” như nói trước đây không thể đạt tới được nữa :
Đạp thanh hội cũ hào hoa
Giấc vàng buổi Tảo Mộ đà cáo chung ”
Bùi Giáng
- Vậy phải làm gì khi “ hệ hình Hy Lạp ” của nền “ nghệ thuật lớn ” cổ đại là bất khả phục hồi, một đi không trở lại ? Trong Xây Ở Suy Tư (1951), Heidegger cho rằng : ta không thể làm cho thần linh quay trở lại, mà chỉ còn có thể “ chăm lo ” (schonen) và “ chờ đợi ” sự lai đáo ấy. Trong Thi sĩ là gì trong thời khốn khó ?, khi bình giảng về tụng ca Bánh và Rượu của Hölderlin, Heidegger thấy cần thiết phải tạo nên một “ bầu khí ” (Ether) thích hợp để đón đợi và làm chỗ cư lưu cho “ thần linh ”, bởi “ chỉ còn có thần linh mới có thể cứu vớt chúng ta ”. “ Thần linh ” ở đây không được hiểu như là sức mạnh siêu nhiên mà như là những kích thước mới cần được khám phá cho sự hiện hữu của con người. Sự đón đợi ấy là sự chuẩn bị ở trong tư thế lẫn sự chuyển hóa ở trong tâm thức. Heidegger viết : “ Là thi sĩ trong thời đại khốn khó có nghĩa là : đón đợi, hát ca, dõi theo sự vẫy gọi của thần linh. Đó là lý do tại sao người thi sĩ trong đêm trường tối tăm của thế giới [Bùi Giáng : “ thế dạ ”] lại tỏ bày sự linh thánh. Đó là lý do tại sao, trong ngôn ngữ của Hölderlin, đêm trường của thế giới lại là đêm thánh thiêng ” (xv). Ta biết rằng, thời hiện đại được gọi là “ đêm tối ”. Ở thời kỳ đầu, Heidegger đọc Hölderlin qua hình ảnh một đêm trường đầy tối tăm, bế tắc (Siêu hình học nhập môn, tr. 46). Bây giờ, đi sâu hơn, hình ảnh mới lại là hình ảnh của “ Tửu thần Dionysos ngao du ca hát trong đêm thánh ”. Trên con đường Quy hồi cố quận, bây giờ Hölderlin lại trải nghiệm đêm tối như cái gì “ thanh sạch ”, “ hân hoan ”, hay, nói như ngôn ngữ Bùi Giáng, trong “ hồn ca vũ địa ”.
Tóm lại, khi thử đặt Bùi Giáng vào trong mối quan hệ mật thiết với Heidegger và Hölderlin, qua đó soi sáng phần nào hành trạng, suy tư và sáng tác của ông, ta thấy Bùi Giáng là một trường hợp khá đặc biệt, hiếm có : không chỉ tiếp thu nguồn thi ca, tư tưởng vốn xa lạ theo nghĩa thâm cảm, tri kỷ mà còn tự dấn mình thực hiện trọn vẹn như một biểu trưng : “ Trút linh hồn dường như thể như thân ”. “ Biết ít, vui nhiều, ấy là tặng vật, cho người phù du ” (xvi). Bùi Giáng không muốn ai bắt chước mình. Nhưng có lẽ ông muốn mình được đọc, được hiểu như một dấu hiệu của sự TỰ DO trong “ thời khốn khó ”. Quả thật, Bùi Giáng, “ trên cơ bản, là một nhà thơ ”.
14.09.2013

Bùi Văn Nam Sơn


NGUỒN : DIENDAN FORUM



(ii) Martin Heidegger : Erläuterungen zu Hölderlins Dichtung / Elucidations of Hölderlin’s Poetry/Minh giải Thi ca Hölderlin, bản tiếng Anh của Keith Hoeller, New York, 2000, tr. 13 và trong The Heidegger Controversy: A Critical Reader, ed. R. Wolin, Cambridge, Mass, 1993: “Tư tưởng của tôi ở trong mối quan hệ quyết định với thi ca của Hölderlin” (tr. 112).
(iii) Martin Heidegger : Erläuterungen zu Hölderlins Dichtung, Gesamtausgabe, Band 4, Vittorio Klostermann, Frankfurt am Main, 1981.
(iv) Martin Heidegger : Der Ursprung des Kunstwerkes, Reclam 1960, 2008 (BVNS dịch và chú giải, sắp xuất bản).
(v) Bùi Giáng : Lễ Hội Tháng Ba, NXB Văn hóa Sài Gòn, tái bản 2008, tr. 7 và tiếp.
(vi) Martin Heidegger : Hölderlin und das Wesen der Dichtung / Hölderlin và bản chất của thi ca, Toàn tập, Tập 4, tr. 47.
(vii) F. Hölderlin : “Dichten: diss unschuldigste aller Geschäffte” (III, 77), Sđd. Tr. 31.
(viii) “Darum ist der Güter Gefährlichsten, die Sprache dem Menschen gegeben… damit er zeuge, was er sei…” (IV, 246), Sđd. Tr. 31.
(ix) F. Hölderlin : “Was bleibt aber, stiften die Dichter” (IV, 63), Sđd. tr. 31.
(x) Chuồn chuồn, Châu chấu, Rừng Marylin, Biển Bardot, Ngành Novak, Đóa John Keats, Miền Hà Thanh, Ngành Mật niệm, Đóa U linh, Hồng lĩnh Hạc lâm, Quỳnh Lai Thị Xứ, Nghìn thu Cổ lục, Ngày Hy Nga, Đêm Bé Chị, Hoa trên Ngàn, Sóng Hồng Hoang, Thềm dục vọng… (xem thêm: Mai Thảo, Một vài kỷ niệm với Bùi Giáng, trong nhiều tuyển tập)
(xi) “Voll Verdienst, doch dichterisch wohnet Der Mensch auf dieser Erde” (VI, 25) Sđd. tr. 31.
(xii) Bùi Giáng : Hư vô và Vĩnh viễn (Mưa Nguồn): “Hồn hoa cỏ Phượng Thành Hy Lạp úa”.
(xiii) F. Hölderlin : “Wie wenn am Feiertage…”, trong M. Heidegger: Erläuterungen zu Hölderlins Dichtung/Giảng giải Thơ Hölderlin, Toàn tập, Tập 4, tr. 49 và tiếp.
(xiv) F. Hölderlin : “Andenken”, nt, tr. 79 và tiếp.
(xv) Thi sĩ để làm gì ?/ Wozu Dichter ? / What are poets for ? Bản tiếng Anh trong Poetry, Language, Thought, London 1975, tr. 94.
(xvi) F. Hölderlin : “Zu wissen wenig, aber der Freude viel, Ist Sterblichen gegeben…” (IV, 240)/To know little, but of joy much Is given to mortals. Heidegger dùng làm đề từ cho phần bình giảng về Tụng ca “Quy Hồi Cố quận/Gửi người thân thuộc” (Heimkunft/An die Verwandten) của Hölderlin. Sđd. tr. 13, Bùi Giáng : Lời Cố Quận, An Tiêm 1971, tr. 30.

21 thg 9, 2013

Điều trần về nhân quyền tại Bắc Hàn

Cập nhật: 03:46 GMT - thứ tư, 21 tháng 8,2013
Bắc Triều Tiên
Bắc Hàn bị cáo buộc vi phạm nhân quyền nghiêm trọng
Các nhân chứng trốn thoát khỏi Bắc Triều Tiên đã cung cấp chi tiết về sự tàn bạo và lạm quyền trong các trại giam của nước này.
Một ủy ban của Liên Hiệp Quốc đã bắt đầu phỏng vấn các nhân chứng tại thủ đô Nam Hàn, Seoul, và sau đó sẽ chuyển sang Nhật Bản.
Một trong những nhân chứng đầu tiên đã mô tả việc phải chứng kiến cảnh mẹ mình bị hành hình.
Bắc Hàn đã bị cáo buộc vi phạm nhân quyền, trong đó có việc tra tấn, bắt cóc và tổ chức trại tập trung.
Hồi tháng Năm, Liên Hiệp Quốc đã công bố tên ba thành viên của ủy ban điều tra đầu tiên về nhân quyền tại Bắc Hàn.

'Chặt ngón tay'

Shin Dong-heyok là nhân chứng đầu tiên điều trần trước ủy ban này.
Sinh ra trong một trại giam tại Bắc Triều Tiên, Shin cho biết đã phải chứng kiến cảnh mẹ và anh trai bị hành quyết sau khi hai người này tìm cách trốn khỏi trại giam nhưng bất thành.
Nhân chứng này cũng nói bản thân đã bị lính gác chặt ngón tay vì đánh rơi một chiếc máy may.
Một cựu tù khác, Jee Heon-a, thì mô tả cảnh một người mẹ bị buộc phải giết chết đứa con nhỏ của mình.
Phiên điều trần sẽ kéo dài đến thứ Bảy 25/8, với 30 người được dự kiến sẽ được thẩm vấn. Các phiên điều trần được tổ chức tại Seoul và Nhật Bản vì các điều tra viên không được phép vào Bắc Hàn.
Thẩm phán đã nghỉ hưu người Úc, ông Michael Kirby, giữ vai trò chủ tọa các buổi điều trần. Bên cạnh ông có đặc phái viên Liên Hiệp Quốc Marzuki Darusman và nhà hoạt động nhân quyền Sonja Biserko.
Ủy ban này được thiết lập với nhiệm vụ điều tra "các vi phạm nhân quyền nghiêm trọng, mang tính hệ thống và lan rộng" tại Bắc Triều Tiên, Liên Hiệp Quốc nói trong một thông cáo hồi tháng Năm.
Ủy ban điều tra cũng sẽ xem xét ai là người phải chịu trách nhiệm cho vi phạm của các tổ chức cũng như quan chức chính phủ, phóng viên BBC tại Seoul, Lucy Williamson, cho biết.
Họ cũng sẽ gặp mặt các quan chức chính phủ, những nhóm vận động, và phỏng vấn các nhân chứng tại Nhật Bản.
Đoàn điều tra sẽ phải nộp phúc trình lên Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc và tháng Ba năm 2014.
Nguồn BBC

16 thg 9, 2013

Đơn Sơ Như Một Lời Ca

  PINTURAS
 

Ta vẫn đi trong lung linh gió bụi trần gian,   
gặp em giữa mênh mông bến bờ thi ca nước mắt.
Ta cúi xuống môi hôn trăng sao vằng vặc,
yêu em ngàn đời hương sắc giấu trong tay ? 
 
Xin mặt trời làm chứng cho những cơn say
ta mơ ước thành con chiên ngoan đạo,
 mà lòng ta ngậm ngùi nuôi gió bão
dập vùi giữa môi người một kiếp văn chương.
 
Thương em muốn làm một thảm cỏ xanh
vướng vào sắc-không diệu thường ngàn năm tiếc nuối
 vần thơ ta  một đời rong rêu đá cuội
lại hóa thân thành cuộc tình không có tuổi - cho em.
 
Giữa đất trời, ta xin làm một gã hát rong
Để ta hát trong mênh mông tình em
 hát cho đau thương trần gian
hát cho nhọc nhằn thương nhớ
ngàn năm mắc nợ… một thuở u hoài.
 
 Đêm nay những cơn gió mùa thu thổi qua dòng sông,
thổi qua hồn anh,
 mang hơi thở của tình em,
làm chênh vênh nỗi sầu thiên cổ
biết nơi ngàn trùng em còn trăn trở cùng ta ?
 
Em ơi, tình ta như gió, như sương
nhập vào  man man trần thế
mênh mông như màu xanh của bể
Và đơn sơ như một lời ca…
    KIEUGIANG 6/9/2013