Con người sinh ra tự do nhưng ở đâu cũng có xiềng xích. J.J. ROUSSEAU.

13 thg 10, 2017

Cái Bóng Đen Trên Dòng Sông Như NGuyệt ( Tổ Quốc Hay Ngai Vàng?)


          Truyện ngắn  Kiều Giang

1. Vùng biên cương phía Bắc , trời đã vào tiết thu, sương đêm phủ kín núi rừng. Sông Như Nguyệt, mùa nước bắt đầu lên, tung bọt trắng xóa từ độ cao hơn ngàn mét, vẫn lặng lẽ, âm thầm một dòng chảy muôn đời hướng về Thăng Long, còn lòng của Lê Chiêu Thống thì ngổn ngang trăm bề. Vị vua cuối cùng của nhà Hậu Lê đăm đăm nhìn dòng sông đêm cuồn cuộn, rồi chua chát :“ Đã ngót ba trăm năm mươi năm, từ ngày tiên đế Thái Tổ nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử để đuổi giặc Ngô, dựng nên một thời Hoàng Kim cho nước An Nam ta, cứ ngỡ triều đại nhà Lê đã sâu rễ bền gốc, giữ mãi muôn đời cơ đồ xã tắc, nào ngờ…” . Lê Duy Kỳ nghĩ đến đó rồi không dám để cho dòng suy tư chảy tiếp. Cái se lạnh của vùng Kinh Bắc cùng với cơn quẩn bách của thế cuộc, làm cho đôi vai của vị vua hai mươi ba tuổi triều Lê khẽ rung lên, vẽ một nét mờ nhạt vào không gian, dưới ánh đèn dầu leo lét trong mái lá ven sông. Trong bộ áo dân dã, ngài ngậm ngùi quay sang tham tri chính sự Lê Duy Đản và phó đô ngự sử Trần Danh Án:


- “Khi Nguyễn Huệ ra Thăng Long lần đầu, diệt họ Trịnh, lấy lại xã tắc giao cho ta, rồi sai Vũ Văn Nhậm giết Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền ức hiếp ta, lần này, giết Vũ Văn Nhậm, giao nước cho Sùng Nhượng công làm giám quốc, thì coi như hắn đã đoạt ngôi nhà Lê rồi, ta còn mặt mũi nào nhìn lại miếu đường nhà Lê nữa !”
Nói xong, Lê Chiêu Thống òa khóc, trông rất thảm thiết.
Lê Duy Đản cũng thở dài, rồi bẩm:
- “Chúng thần cũng đứt từng khúc ruột, nhưng vì trí mọn tài hèn, theo phò bệ hạ, ăn lộc nước, chịu ơn vua, mà để thiên nhan phải nhiều phen bôn ba vất vả, thật đáng tội chết. Nhưng Nguyễn Huệ là trang tuấn kiệt, đệ nhất anh hùng trong thiên hạ đời nay, mới 25 tuổi mà đã bách chiến bách thắng, oai hùm ai nghe danh cũng khiếp sợ, diệt họ Trịnh, khôi phục Lê triều, trị tội Nguyễn Hữu Chỉnh, giết Vũ Văn Nhậm, đánh tan 5 vạn quân Xiêm, như lấy đồ chơi trong túi. Nay, triều thần tan tát, bệ hạ muốn khôi phục ngôi báu, may ra, chỉ còn lại một con đường…”
Trần Danh Án, liếc mắt nhìn Lê Duy Đản, rồi tiếp lời:
- “Tâu thánh thượng, xin thánh thượng tha tội thì thần mới dám nói”.
-“ Thì ông cứ nói, ta còn lòng nào trách tội ông, trong hoàn cảnh nguy khốn này”.
-“ Không còn con đường nào khác là cầu viện nhà Thanh. Chỉ có hoàng đế Thanh triều là Càn Long mới có thể giúp được bệ hạ khôi phục ngôi báu”.
Lê Chiêu Thống, trầm ngâm một lát rồi nói như tâm sự, của một ông vua cùng đường:
- “Ta cũng đã nghĩ đến điều ấy, nhưng ta chưa thể tin hết vào bụng dạ người Tàu.”
Rồi một nỗi cay đắng bỗng dâng lên trên lưỡi của vị vua bất tài non dạ, Chiêu Thống nói tiếp:
-“ Ngày xưa Thái tổ ta mười năm nằm gai nếm mật, dân Nam ta phải đầu rơi máu đổ, xương phơi trắng Lam Sơn, mới đuổi được giặc Minh, nay ta lại rước quân nhà Thanh vào, biết họ sẽ làm gì, rồi ta có còn có thể bảo vệ nổi bá tánh, giữ được miếu đường của tiên tổ hay không !”. Nhà vua ngồi gục đầu, không muốn nhìn thẳng vào mắt hai vị cận thần. Màn đêm phủ kín núi rừng Kinh Bắc, xa xa tiếng cuốc, tiếng vạc kêu sương, nghe não nuột. Quan tham tri chính sự Lê Duy Đản nhìn sâu vào màn đêm, tiếng chim rơi vào cái khoảng không nghe lạnh người, lấy hết can đảm, lên tiếng:
-“ Thần nghe Càn Long là một vị vua biết trọng nghĩa. Chúa tôi nhà Lê một lòng hiếu thuận với thiên triều, đã hơn ba trăm năm cống nộp, không sót một lần, bây giờ triều Nam có biến, vua Nam cầu viện, chẳng lẽ ông ta làm ngơ. Lấy lại được ngai vàng rồi ta sẽ tính tiếp”
Ngưng một lát, Duy Đản nói tiếp:
-“Bây giờ ở đây lâu ngày sẽ bị giặc phát hiện tông tích của bệ hạ, sẽ xảy ra tai biến bất trắc, chi bằng bệ hạ hãy lên Cao Bằng, Huy Túc hãy còn hầu thái hậu ở đó, trong thì dùng các phiên thần hộ vệ, ngoài thì dựa vào sự cứu viện của thiên triều, ngõ hầu mới làm được việc” *
Vua cho là phải, bèn sai thảo bức thư kể tội Nguyễn Huệ và tình cảnh quạnh vắng miếu đường nhà Lê, nghe rất thống thiết, rồi sung chức chánh phó sứ cho Đản và Án đem thư dâng lên quan tổng đốc lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị.
Duy Đản và Danh Án đội nón cũ, mặc áo rách, trà trộn vào dân buôn, Vua Lê tiễn hai người đến vùng núi Bảo Lộc, theo đường tắt qua ải Lạng Sơn mà đi. Danh Án chạnh lòng làm bài thơ tự thán, trong đó có hai câu: “ Thiên cổ do truyền kỳ tuyệt sự/ Tệ soa tàn lạp sứ thần trang” (Ngàn thuở còn truyền câu chuyện lạ/ Sứ thần áo rách nón mê tàn).
Hôm sau, nhờ quân của viên quan giữ ải đưa đến doanh phủ Thái Bình (Quảng Tây), hai người quỳ mọp giữa sân phủ, gào khóc, kể lể tình cảnh của vua quan nhà Lê rất thảm thiết: “ nước mọn chúng tôi làm bề tôi của thiên triều đã ba trăm năm, giữ phận tiến cống không bao giờ ngớt, nay bị bọn rợ Tây Sơn chiếm đoạt, người ta đến nước cùng thì phải quay về gốc (!), khấu đầu mong Thiên ân ra tay cứu giúp, nối lại dòng, để cho họ Lê được làm bề tôi tiến cống, đội phúc lớn của trời…”.
Trời đổ lửa xuống sân phủ, nhưng Đản và Án quyết không chịu đứng dậy, cho đến khi viên quan phân phủ họ Vương ra dỗ dành: “ lũ các ngươi một lòng trung thành với nhà Lê, thật đáng thương, thiên triều sẽ có cách phân xử, hãy lui về nhà trọ chờ mệnh lệnh, ở đây kêu khóc mãi, liệu có ích gì”.
Án và Đản như mở cờ trong bụng, lạy tạ, rồi lui về dịch xá, Án nói với Đản: “Thế là nghiệp lớn sắp thành, ngai vàng nhà Lê sắp được khôi phục, nay tôi ở lại đây để đón đại quân thiên triều, còn ông thì phải về Phượng Nhãn cấp báo với hoàng thượng, người đang ngày đêm trông đợi”.
Lúc ấy tháng chín, cuối thu, năm Mậu thân 1788, Tổng đốc lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị tiếp thư bẩm của họ Vương kèm tờ biểu của Chiêu Thống, bỗng cười lớn mà bảo với thuộc hạ:“ Nước An Nam từ thời Hán Đường là nước phụ thuộc vào nước ta (?), đến đời Tống, họ Đinh quật cường, mới có bờ cõi riêng, trở thành nước tiến cống, trải mấy đời nối theo nhau cho đến ngày nay, lại không thể giữ được nước, phải chăng, trời khiến nước ấy lại làm quận huyện của Trung Quốc chăng?”.*
Nói rồi, máu Đại Hán lại rần rật trong người hắn, những tiên tổ của hắn như Mã Viện, Cao Biền, Thoát Hoan, Trương Phụ, Hoàng Phúc, Liễu Thăng, Vương Thông …,đã lỡ mang nhục bỡi nước Nam, nay lại trở về, làm sâu bọ…, đang bò vào mạch máu hắn, làm cho tay chân hắn ngứa ngáy, hắn đang mơ một ngày, 50 vạn quân của 4 tỉnh biên cương sẽ tràn xuống làm cỏ nước Nam, trả thù mối nhục cho họ, hắn sẽ là trang anh hùng duy nhất chiến thắng quân Nam, lưu danh trong sử sách muôn đời !
2. Cuối thu, vùng núi rừng biên cương Hòa Lạc Lạng Sơn, trời đêm se lạnh, Vua Lê đang thấp thỏm, mỏi mắt hướng về phương Bắc ngóng trông những trung thần đem tin vui từ Thanh triều “ rủ lòng cứu vớt”, bắt đầu một cơ duyên cho đất nước non sông(?), Chiêu Thống nói như tự an ủi: “Mùa thu cứ bước đi, bước đi, ước gì ta được ôm hôn hoàng đế Càn Long ba cái, như bao người trước, người sau !”.
Bỗng đâu, Duy Đản ở Thái Bình về, tâu rằng vua Thanh đã chuẩn y cứu viện, Lê Quýnh báo tin Thái hậu ở Nam Kinh khang kiện an vui. Chiêu Thống lệnh cho Duy Đản lấy giấy bút chép phúc thư, rồi ngửa mặt lên trời mà đọc rằng: “ Kẻ tiểu tử Duy Khiêm này, gặp lúc vận nhà lắm nạn, được đức đại hoàng đế rũ lòng thương bảo bọc…, kẻ hèn mọn như chết đi sống lại, ơn tái tạo của đức đại hoàng đế cùng với công gầy dựng của Tôn tướng quân đáng ghi tạc như sông Lô, núi Tản, bền vững muôn đời…”*. Sĩ Nghị tiếp được tờ bẩm của Triều Châu kèm phúc thư của Chiêu Thống, liền dâng biểu lên vua Thanh xin xuất quân, đại ý nói rằng: “ Thần nghe nói họ Lê ở An Nam hèn yếu, hơn nữa nơi ấy là đất cũ của ta, sau khi khôi phục họ Lê rồi, nhân đó ta cho quân đóng giữ, như thế vừa khôi phục được họ Lê, lại chiếm được nước An Nam, một công mà hai việc vậy”.
Đại quân gần 30 vạn, chia thành ba ngả, một do đề tổng Vân Quí là Ô Đại Kinh chỉ huy theo ngả Tuyên Quang tràn xuống, một do tri phủ Điền Châu Sầm Nghi Đống điều khiển từ Khâm Châu qua Cao Bằng , đạo còn lại do chính Tôn Sĩ Nghị và và đề đốc Hứa Thế Hanh chỉ huy, theo đường Lạng Sơn, trực chỉ La Thành.**.
Ở Thăng Long, đại tư mã Ngô Văn Sở nghe theo kế của thị lang bộ lại là Ngô Thì Nhậm, rút quân về đóng ở núi Tam Điệp để bảo toàn lực lượng, chờ lệnh của Bắc Bình Vương. Nghe tin Ngô văn Sở và Phan văn Lân đã lui quân, Tôn Sĩ Nghị cười lớn và bảo với quan tham tri nhà Lê là Vũ Trinh rằng: “ Lũ các ông bị quân Tây Sơn đối xử tàn ngược đã lâu, nên nghe đến chúng là run sợ, nhưng theo ta xem xét thì chúng chỉ là hạng trâu dê, chỉ cần sai một người đem thừng buộc lấy cổ mà lôi về cũng không khó gì, đợi khi quân ta đến La Thành, nhổ bãi nước bọt xoa tay là làm xong việc, ngươi hãy chờ xem”*
Khi Nghị hành quân đến trấn Kinh Bắc, quang cảnh hoang tàn, đường đi không có bóng người, không có chó chạy, chim đã bay hết về rừng, vua Lê dẫn các quan đến đón, cùng quỳ xuống ven đường, trông rất thảm hại. Thấy vậy, Nghị an ủi:
-“ Quý tự mắc phải nạn lớn đã nhiều năm, nay nhờ ơn đức đại hoàng đế thương xót, sai bản chức đem hùng binh hộ tống mẹ và vợ con ông về nước. Chuyến này sang đây, trước hết cần phải bắt cho hết đảng giặc, rồi sau chỉnh đốn qui mô làm kế lâu dài, khi nào việc ổn thõa rồi mới rút quân, xin chớ lo gì việc nước nữa” *.
Vua Lê ôm Nghị hôn ba lần, rồi nghẹn ngào:
-“ Phận hèn này xin đội ơn đại hoàng đế, đức cả như trời, không sao kể xiết, lại nhờ cụ lớn hạ mình đến đây, khiến cho nước chúng tôi được thấy ánh sáng của áo cừu, đai ngọc, được thõa lòng ngửa trông sao Bắc Đẩu, núi Thái Sơn, mối tình Trung -Việt từ nay đời đời bền vững như núi Hoàng Liên Sơn vời vợi…”* . Vua Lê mời Nghị vào dinh nghỉ tạm, Nghị không vào, hắn cho quân bắn chín phát súng thị uy, rồi nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi. Khi đến bờ bắc sông Nhĩ Hà, thì trời đã chạng vạng , vua Lê xin qua sông , vào kinh thành trước, sai quân tìm cho được đèn hoa lụa gấm sửa sang điện Kính Thiên rồi mời Nghị vào ở, nhưng Nghị không vừa ý, đoạn chia quân đóng ở những nơi quang đãng nằm dọc hai bên bờ nam bắc Nhĩ Hà, lại có cầu phao, để tiện việc qua lại. Hôm ấy là một ngày giữa đông, 11 tháng 11 năm Mậu Thân 1788.
3. Còn hơn một tháng nữa mới đến tiết đông chí, nhưng trời Thăng Long rét đậm, lại có mưa phùn, người ta chỉ trông thấy những chiếc bóng mờ nhạt như bóng ma lom khom, co ro trong những chiếc áo tơi lá cọ cũ nát trên những con đường vắng ngắt, thỉnh thoảng mới thấy những toán quân Thanh tay cầm giáo dài đi tuần.
Hôm sau, Chiêu Thống thân hành đến doanh đón Nghị. Nghị sai người bày biện nghi trượng rất long trọng ở điện Kính Thiên để làm lễ phong vương cho Chiêu Thống, truyền tất cả quan chức nhà Lê tới hầu. Vua Lê mặc áo cổn đội mũ miện quỳ ở giữa sân, Nghị tuyên đọc sắc chỉ của hoàng đế nhà Thanh phong cho Lê Chiêu Thống làm An Nam quốc vương. Sau lễ thụ phong, vua Lê, theo thông lệ, phải dâng biểu, ngửa mặt xa trông về cửa khuyết nơi bắc phương mà lạy tạ.
Tuy rằng từ đây Chiêu Thống là vua nước Nam, nhưng giấy tờ đưa đi các nơi đều dùng niên hiệu Càn Long. Ngày ngày, sau buổi chầu, Chiêu Thống chẳng còn võng lọng gì nữa, chỉ cỡi ngựa cùng Lê Quýnh và mươi tên quân hầu, tới chầu ở doanh Nghị để nghe truyền việc nước, việc quân. Nghị thì ngông nghênh, tự cho mình là tôn quý, có khi vua tới yết kiến, hắn không thèm tiếp, cho quận lính đuổi về. Người trong kinh có thấy cũng không biết là vua, nếu có người biết thì cũng chỉ dám xầm xì to nhỏ với nhau rằng: “ Nước Nam ta từ khi có đế, có vương, chưa thấy có ông vua nào luồn cúi đê hèn đến thế.”. Riêng đám quan lại nhà Lê, trước kia phiêu bạt khắp nơi, nay lục tục kéo đến lạy mừng, vua đều phong chức tước: cho Lê Duy Đán, Vũ Trinh làm tham mưu chính sự, Nguyễn Đình Giản làm thượng thư bộ binh, Nguyễn Duy Hiệp, Chu Doãn Lệ làm đồng tri xu mật viện sự, Trần Danh Án làm phó đô ngự sử, Lê Huy Tấn, Phạm Quý Thích làm độ chi bộ hộ, Lê xuân Hạp, Ngô Vi Quý làm đồng tri binh chính, Phạm Đình Dữ làm thượng thư bộ lại, Nguyễn Huy Túc làm bình chương sự, đặc biệt Lê Quýnh làm quân trung úy đốc, tước quận công, lĩnh quân cần vương theo Tôn Sĩ Nghị lo liệu và xử trí việc quân *. Cả quần thần nhà Lê bấy giờ như một đám bèo trên sông, tán tụ tùy theo con nước, giờ đây lại càng thể hiện tính giá áo túi cơm, theo vua tìm miếng đỉnh chung, quả là đất nước thời mạt vận.
Quân Thanh ngày càng lộng hành, ra đường nghênh ngang say sưa, cướp bóc, hãm hiếp phụ nữ, nhưng nếu có ai dám nói động đến uy danh của Tôn tướng quân, hay của thiên triều, hoặc trình báo lên quan nhà Lê những điều uất ức, thì lập tức bị chính vua Lê ra lệnh bẻ răng rút lưỡi, tống vào ngục, cho nên không ai dám hé môi, kinh thành như bãi tha ma, chó không dám sủa, gà không dám gáy, chỉ còn vật vờ bóng lũ quan họ Lê và đám kiêu binh nhà Thanh bạo ngược.
Trong đám quan lại của Lê triều có phó hiến trấn Kinh Bắc là Ngô Tưởng Đào, lấy cớ già ốm, xin cho lui về vườn, nhưng còn dâng sớ xin vua gấp rút đem quân tấn công quân Tây Sơn trong khi Sở và Lân còn trơ vơ ở Tam Điệp. Vua Lê và các quan cho là phải, nhưng Lê Quýnh bác đi và đem việc tâu với Nghị, hắn trả lời:
- “ Việc gì mà các ông vội vã thế? Nay, ví như thò tay lấy đồ vật trong túi, đến sớm thì lấy sớm, đến muộn thì lấy muộn đấy thôi. Giặc gầy mà ta béo, hãy để cho chúng tự đến nộp thịt.” .
Đã gần hai tháng, từ ngày Nghị đặt chân lên mảnh đất “ Nước Nam vua Nam ở” ngót ngàn năm, nhờ sự quì gối đốn mạt của Chiêu Thống, viên tổng đốc lưỡng Quảng và các tướng Thanh còn ngất ngây trong mùi chiến thắng, ngày đêm say sưa hoan lạc trong tửu sắc, ngày nào Lê Quýnh cũng đòi vua Lê dâng gái đẹp rượu ngon cho Nghị và bọn tùy tướng, còn bọn lính Thanh thì mặc sức lùng sục kiếm gái trong tận hang cùng ngõ hẻm của Thăng Long thành, khiến nhà nhà đều phải đưa đàn bà con gái đi lánh nạn nơi khác.
4. Đêm cuối năm, trời Thăng Long mưa phùn, như có ai đó đem cái giá rét từ phương bắc về. Không thể chợp mắt được, vua Lê bước lại vén bức màn cửa nhìn ra khu vườn sau lưng điện Kính Thiên, bóng đêm mịt mùng, thỉnh thoảng mới thấy một toán lính, tay xách đèn bão, còn tay kia cầm cây giáo dài, dáng co ro trong chiếc áo tơi lá cọ, đứng gác, trông tiều tụy, thảm thương.
Đêm im ắng khác thường. Tuy mùa đông Thăng Long buốt giá, nhưng Chiêu Thống thấy như mình đang ngồi trên chảo lửa, vua Lê nhìn về phương nam, rồi thở dài: “Nguyễn Huệ quả là trang anh hùng dũng mãnh, nghe đâu, đối với bọn tùy tướng, chỉ cần hắn trỏ tay, đưa mắt, thì ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm sét, không có người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn, hắn cầm quân xuất quỷ nhập thần, đi không ai biết, ở chẳng ai hay, mấy lần hắn ra vào Thăng Long như đi chợ, bắt Nguyễn Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, khi gươm kề vào cổ, thì Vũ Văn Nhậm mới biết chủ tướng của hắn đang uy nghi đứng trước mặt. Gần hai tháng nay, Lê Quýnh dối gạt Tôn tướng quân, để trấn an quân thiên triều, chứ có biết gì về tung tích của Nguyễn Huệ Tây Sơn! Hẳn nhiên, Nguyễn Huệ không phải là loài dê lợn như Tôn Sĩ Nghị đã từng huênh hoang, và cái ngai vàng không có dân của ta, không biết còn tồn tại đến bao giờ !”.
Đã mấy ngày xuân trôi qua, đêm đêm nhà vua chỉ nghe tiếng đàn hát từ dinh của Tôn Sĩ Nghị vọng sang, còn Thăng Long thì vẫn chìm trong u buồn. Nhà vua chỉ nghe tiếng phụ nữ than khóc ở đâu đó, mà không nghe tiếng cười đùa của trẻ thơ, chẳng có tiếng dân giết lợn để vui xuân, mà chỉ có tiếng chó sủa vào những toán lính Thanh say sưa ngả nghiêng trên phố. Tuy là trời đã hết mưa phùn, nhưng ngoài đường cũng thưa thớt người đi, trẻ con không mặc áo mới ra đường, phụ nữ không thấy có áo hoa, chợ không hoa đào, cảnh tượng kinh thành chưa bao giờ thê lương ảm đạm như thế.
Điện Kính Thiên và dinh Tổng đốc vẫn liên lạc với nhau thường xuyên và chặt chẽ. Nghị an tâm tận hưởng những ngày xuân chiến thắng bên những cô đào mơn mởn xứ An Nam. Trong khi đó, vua Quang Trung đã chia quân thành 5 đạo, tối 30 Tết, từ Tam Điệp, gióng trống trận, thần tốc tiến về Thăng Long. Trong cơn mơ màng của hương hoa nơi phòng the còn chưa dứt, bỗng rạng sáng mồng 4, quân kỵ chạy về cấp báo với Nghị rằng Hà Hồi đã thất thủ trong đêm mồng 3, quan quân ở đồn Hà Hồi đã đầu hàng, và bị quân Tây Sơn bắt hết, đồn Khương Thượng cũng bị đô đốc Long phá vỡ tan tành, thái thú Điền Châu Sầm Nghi Đống đã thắt cổ tự vẫn, và hiện quân Tây Sơn đang vây kín Ngọc Hồi. Nghị nghe, choáng váng mặt mày, thốt lên: “ Tướng Tây Sơn từ trên trời xuống, quân Tây Sơn từ dưới đất chui lên hay sao?”. Nói rồi, Nghị sai lãng binh Quảng Tây là Thanh Hùng Nghiệp đem binh tới cứu, nhưng không ngờ rằng canh tư đêm ấy, mặt trận phía tây bắc bị vỡ, Nghị cỡi ngựa ra xem thì thấy khói lửa bốc lên đầy trời, quân Tây Sơn đã vào cửa ô, chém giết quân Thanh chết không biết bao nhiêu mà kể, Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, bỏ cả sắc thư, kỳ bài, quân ấn, thúc bọn lính kỵ mã chạy trước ra cầu phao, rồi nhắm hướng bắc mà chạy. Bọn lính trong doanh nghe chủ tướng đã bỏ chạy, nên như rắn mất đầu, cũng tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu phao, cầu phao đứt, rớt xuống sông chết đuối, xác làm tắt nghẽn cả sông Nhĩ Hà.
Vua Lê ở trong điện nghe tin xấu, hốt hoảng, chưa kịp mang theo gì đáng giá, tất cả đều bỏ lại, vội vã cùng bọn Lê Quýnh, Trịnh Hiến đưa thái hậu trốn đi. Khi đến bờ sông thì cầu phao đã đứt, phải chạy ngược lên Nghi Tàm, cướp được thuyền đánh cá, chèo sang bờ bắc. Vua Lê nhìn thái hậu rồi nhìn lại bờ nam, rơi nước mắt. Trời đã nhá nhem tối, vua tôi Lê Chiêu Thống đến cửa ải thì đuổi kịp Tôn Sĩ Nghị, nhà vua ngậm ngùi: “ Cô bất tài, nghiệp lớn không thành, lại làm nhọc tướng quân, nay xin ở lại đất nước thu nhặt dân binh, mưu khôi phục xã tắc, xa nhờ oai linh của tướng quân, may mà xong việc, xin kính chúc tướng quân về triều được hai chữ vạn phúc”.
Nghị nói: “ Nguyễn Huệ chưa bị diệt, việc này còn chưa thôi, nay hãy dâng biểu xin quân, trong vòng một tháng, đại quân lại kéo sang. Ở đây gần đảng giặc, sợ không yên, hãy tạm vào Nam Kinh nghỉ ngơi, chờ thánh chỉ vậy”.
Nghị thu nhặt tàn quân, còn Chiêu Thống cùng các cận thần theo hầu, đưa thái hậu theo Nghị sang Trung Quốc.
5.
Ngày 30 tháng chạp năm bính thân, khi đang ở Tam Điệp, chuẩn bị xuất quân, vua Quang Trung đã họp các tướng và bảo rằng:
- “ Lần này ta ra dẹp giặc Thanh, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua chỉ trong mươi ngày, có thể đuổi được người Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm hổ thẹn mà lo mưu báo thù, như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân, nên nỡ nào ta làm như vậy. Đến lúc ấy phải có người khéo lời lẽ mới dẹp nổi việc binh đao, không có Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được. Chờ mươi năm nữa, cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, nước ta đã giàu, quân ta đủ mạnh thì ta có sợ gì chúng.”. Bọn Sở, Lân cùng tùy tướng đều quỳ lạy tạ mà nói: Chúa thượng nhìn xa trông rộng, chúng tôi ngu dại không thể nghĩ đến chỗ đó.
Chỉ trong vòng năm ngày, Quang Trung đã quét sạch 29 vạn quân Thanh ra khỏi bờ cõi. Trưa mồng sáu tháng giêng năm Kỷ Dậu, Quang Trung tiến quân vào đóng quân ở Thăng Long, rồi ra lệnh chiêu an.Khoảng mười ngày sau, đã có hơn một vạn quân Thanh ra đầu thú, và đều được cấp phát lương ăn áo mặc. Nhà vua còn ra lệnh thu nhặt hài cốt quân Thanh tử trận chôn thành gò đống, lập đàn cúng tế, sai Vũ Huy Tấn làm văn tế, biểu thị sự thương xót đối với quân dân Trung Quốc chết xa nhà, bài văn tế có đoạn viết:
“Nay ta
Sai thu nhặt xương cốt chôn vùi
Bảo lập đàn bên sông cúng tế
Lòng ta thương chẳng kể người phương Bắc
Xuất của kho mà đắp điếm đống xương khô
Hồn các ngươi không vơ vẩn ở trời nam, hãy lên đường mà quay về nơi hương chí
Nên kính ngưỡng ta đây là chủ, chan chứa lòng thành
Những mong sao đáp lại đạo trời, dạt dào lẽ sống…***
Nhân bắt được chiếu thư của Càn Long và quân ấn do Sĩ Nghị bỏ lại, Quang Trung đưa cho Ngô Thì Nhậm xem và bảo:
-“ Qua tờ chiếu của vua Thanh, ta thấy rõ bụng dạ của họ như thế nào rồi. Nay họ bị ta đánh thua, nhịn thì thẹn, báo thù thì khó. Vậy những tàn quân ta bắt được, đều nên cấp lương và đưa hết lên cửa ải. Ngươi giỏi nghề văn tự, nên thảo một bức thư gửi cho vua Thanh, đại khái nói: Ta là nước nhỏ, một lòng kính thuận, sợ mệnh trời, thờ nước lớn, nào dám có ý khác. Trước đã có biểu văn đệ sang, bị ngài tổng đốc họ Tôn dìm đi, không thể đến bề trên được. Gần đây ta từ miền Nam tới, vốn là muốn biện bạch lòng thật thà với ngài tổng đốc, không ngờ thiên hạ đồn nhảm, làm to thanh thế của ta, khiến cho mọi người nghi ngờ sợ hãi, bỏ đội ngũ mà chạy trước, để đến nỗi cầu phao bị đứt, quân thiên triều phải chết đuối, ai cũng tranh đường chạy, dẫm đạp lên nhau, kẻ chết, người bị thương.Đó là do ngài tổng đốc họ Tôn gây nên, không phải là tội của nước nhỏ dám giao chiến. Nay đã thu góp được số tàn quân hơn vạn người, xin cấp đủ lương ăn, áo mặc, gửi trả về cố hương, để tỏ rõ lòng thành”.*
Thì Nhậm theo ý đó, thảo một bức thư gửi cho Càn Long, còn ngầm đưa vàng bạc đút lót Phúc Khang An và Hòa Khôn để mau xong việc. Cuối mùa đông năm ấy, Vua Thang sai sứ sang phong cho Quang Trung làm An Nam quốc vương.
Lê Chiêu Thống lẻo đẻo theo Nghị qua ải Nam Quan, sang Trung Quốc, đến trú ngụ ở thành Nam Kinh, đúng vào lúc Phúc Khang An đến thay chức quan của Tôn Sĩ Nghị, và mưu đồ giảng hòa với Tây Sơn, Khang An đón vua Lê cùng với cả bọn quan lại đi theo cùng, vào nghỉ trong thành của phủ Quế Lâm. Phúc Khang An lừa vua Lê cùng bọn tôi thần gọt đầu gióc tóc, để đuôi sam như người Mãn Thanh, rồi tâu láo với vua Thanh rằng, vua Lê bây giờ không còn muốn phục quốc nữa mà đã gọt đầu gióc tóc, muốn xin ở lại Trung Quốc vĩnh viễn.
Để vua Lê khỏi đòi viện binh phục quốc,Hòa Khôn lập mưu đưa vua Lê về Yên Kinh, cạnh nhà Quốc Tử Giám, trước cửa nơi vua ở có biển đề: “ Tây An Nam doanh”, còn các quan đi theo vua thì ở “ Đông An Nam doanh”. Tháng 3, mùa xuân năm Tân hợi 1791, Hòa Khôn phỉnh họ tập trung, để đưa về vùng biên giới, lo ngày trở lại quê hương, rồi âm thầm đày họ đi mỗi người một nơi, chỉ để một mình Trần Thiện ở lại hầu quốc vương. Lúc ấy, Lê Chiêu Thống mới biết rõ mình bị các quan nhà Thanh lừa, từ ấy, vua Lê, dù trong lòng uất ức, nhưng không dám nói đến chuyện xin viện binh nữa.
Mùa hè năm Nhâm Tý 1792, nhà vua nhìn đứa con đầu vĩnh viễn ra đi vì bệnh đậu, việc chôn cất thật sơ sài, còn không bằng con của một kẻ thứ dân, Chiêu Thống mới thấy hết nỗi chua chát của kẻ vong nô, sống vất vưởng trên xứ người, vua lo buồn sinh bệnh, thoi thóp nằm liệt. Mùa đông, bệnh của vua, ngày càng nặng. Đêm ấy trời Yên Kinh rét đậm, Chiêu Thống gượng ngồi dậy nhìn ra khu vườn nhàn nhạt ánh trăng dưới bầu trời lặng ngắt và xa lạ, nhà vua thở dài: “ Trong hơn hai trăm năm mươi năm, từ thời Trang Tông, tuy bị chúa Trịnh chuyên quyền, sóng gió liên tiếp nổi lên, nhưng bờ cõi vẫn được giữ vững ở phía bắc và mở mang về phía nam, cho đến khi ta cõng quân Thanh vào Thăng Long, lúc đó, ngai vua của ta thì còn, nhưng nước đã mất. Ta hiểu dân An Nam oán hận ta, nguyền rủa ta, giờ đây, ta biết mình quá hèn hạ và tội lỗi. Khi mà một ông vua như ta vì muốn bảo vệ cái ngai vàng mục nát của mình, mà đi rước ngoại bang về để chúng bảo vệ cái ngai cho ta, thì tai họa cho dân tộc sẽ không biết còn truyền bao nhiêu đời. Nhưng dân tộc An Nam rất kỳ lạ, khi sinh ra một Chiêu Thống đốn mạt như ta, thì đồng thời cũng sinh ra một trang hào kiệt như Nguyễn Huệ…”.
Nghĩ đến đó, Chiêu Thống khẽ rùng mình và giấu kín dòng tâm tư đó vào lòng, và cũng sẽ chôn sâu vào chiếc quan tài lại mang nhãn hiệu Trung Hoa.
Hôm sau Chiêu Thống gọi các thị thần vào dặn:
-“ Trẫm gặp phải lúc vận nhà suy kém, không thể giữ được xã tắc, phiêu bạt nơi đất khách quê người, để tính việc khôi phục. Nhưng mơ ước ấy của trẫm chắc không bao giờ thành và cũng không còn cần thiết nữa. Nay ta đành gửi nắm xương tàn này nơi đất khách. Sau này nếu các khanh được về nước thì xin hãy cho ta đi theo, để ta tạ tội với các tiên đế và được yên nghỉ ngàn đời bên cạnh tổ tông…”
SG 30/6/2016
Tham khảo:
* Hoàng Lê Nhất Thống Chí – NXB Văn học 1984
** Khâm định Việt sử thông giám cương mục chính biên Q46
*** Quang Trung Nguyễn Huệ, những di sản văn học- NXB Văn Hóa 2006.
và một số tài liệu khác.

Không có nhận xét nào: