Con người sinh ra tự do nhưng ở đâu cũng có xiềng xích. J.J. ROUSSEAU.

16 thg 7, 2011

Quan Niệm Của Hy Lạp Và Trung Hoa (1)

tạp văn của Lâm Ngữ Đường
chuyển ngữ : Nguyễn Hiến Lê

Khi xét quan niệm của Hi lạp về nhân loại, tôi chú ý nhất tới điều này: họ cho thần thánh giống với phàm nhân, còn đạo Ki Tô muốn cho phàm nhân theo gót được Thần Thánh.


Cái đám thần ở trên núi Olympe của người Hi Lạp quả là một bọn ưa khoái lạc, hiếu sắc, đa tình, nóng nảy, gay gổ nhau, lừa dối nhau, đánh xe và ném lao y như người Hi Lạp vậy; một bọn thần cũng thích hôn nhân và có vô số con hoang. Thần với người chỉ khác nhau ở chỗ thần làm sấm làm chớp được, tạo được cây cỏ trên mặt đất, sống hoài mà không chết và uống mật hoa chứ không uống rượu. Chúng ta thấy thân mật với bọn thần đó quá, có thể đeo bị trên lưng rồi đi săn với thần Apollon, hoặc giữa đường, vẫy thần Mercure lại, nói đùa với ngài ít câu, như nói đùa với một người trạm đưa điện tín ở Western Union (Liên Hiệp Điện Tín Cục của Tây bộ) và nếu câu chuyện phím kéo dài quá thì ta có thể tưởng tượng rằng ngài sẽ bảo ta: “Đúng lắm. Nhưng xin lỗi nhé, tôi phải đem gấp điện tín này lại con đường 72”. Thần của dân tộc Hi Lạp là người, khác xa với Đức Thượng Đế tận thiện của đạo Ki Tô! Những vị thần trên núi Olympe đó chỉ là một giống người siêu việt thôi, một giống vĩ nhân bất tử (vĩ nhân hiểu theo nghĩa có nhiều quyền uy, khả năng, chứ không phải có nhiều đạo đức). Trên cái bối cảnh của núi Olympe đó, người Hi Lạp đã tạo ra được những truyện đẹp lạ lùng như truyện Démeter[2], truyện Proserpine[3] và truyện Orphée[4]. Sự tín ngưỡng các vị thần đó học cho là một điều đương nhiên, vì chính Socrate, khi uống thuốc độc cũng rảy một chút rượu tế thần, cầu thần giúp cho mình mau qua thế giới bên kia. Thái độ đó hơi giống thái độ Khổng Tử. Ở thời đại đó tất nhiên phải như vậy. Nhưng ở thời đại này, tinh thần Hi Lạp sẽ có phản ứng nào? Không làm sao mà biết được. Thế giới Hi Lạp không phải là thế giới ngày nay mà thế giới Ki Tô ngày nay không phải là thế giới Hi Lạp. Tiếc Thay!


Người Hi Lạp nhận rằng làm người thì phải chết một đôi khi phải chịu một định mạng cay nghiệt nữa, nhưng xét về đại thể, thì người Hi Lạp yêu đời sống và vũ trụ và mặc dầu, họ dùng khoa học để khám phá thế giới vật chất, họ cũng rán tìm trong vũ trụ cái thiện, cái chân và cái mĩ. Bản chất của con người ra sao thì họ nhận nó như vậy. Họ không tưởng tượng một lạc viên Eden, cũng không quan niệm một “hoàng kim thời đại”, cũng không tin rằng nhân loại đã bị đọa lạc, từ thiên cung bị đày xuống cõi trần. Các người theo đạo Ki Tô có thể bảo rằng họ an phận chịu cái kiếp con người. Nhưng cái kiếp người đó đẹp biết bao! Một số nhà ngụy biện Hi Lạp cho bản tính con người là tốt, một số khác chê là xấu; nhưng họ không tranh biện với nhau kịch liệt như Hobbes và Rousseau. Sau cùng, Platon cho rằng con người gồm cả dục vọng, tình cảm và tư tưởng; và lí tưởng ta cần phải đạt là làm sao dùng sự sáng suốt, chân tri để điều hòa cả ba phần đó. Theo ông, “tư tưởng” thì bất hủ còn linh hồn thì có cao thượng và đê tiện tùy con người thích hay không thích sự công bằng, sự học hỏi, sự điều độ và cái đẹp. Socrate nghĩ rằng linh hồn độc lập mà bất tử. Trong thiên Phédon ông bảo: “Khi hồn lìa xác mà tự tồn tại, khi xác lìa hồn, không phải là chết thì là gì”. Tin rằng linh hồn bất tử, đó là một điểm tương đồng của các quan niệm Ki Tô, Hi Lạp, Lão và Khổng.



Người Trung Hoa cho con người là “vạn vật chi linh” và Khổng giáo còn đặt con người ngang hàng với Trời, Đất nữa: Tam tài[5] là Thiên, Địa, Nhân.



Làm người thì tự nhiên có nhiệt tình, dục vọng và tinh thần. Tự bản thể thì những cái đó không tốt, không xấu. Đàn ông hay đàn bà, ai cũng có tính dục, cũng biết đói, biết khát, cũng có lúc sợ, có lúc giận dữ, cũng chịu cảnh đau ốm, khổ não và cũng chết. Tác dụng của văn hóa theo Khổng giáo là điều hòa những nhiệt tình cùng dục vọng đó; và một khi điều hòa được thì con người cũng ngang hàng với Trời, Đất. Từ nhỏ đến già, tình, dục cùng tinh lực của con người đều thay đổi, phát triển theo từng thời kì, cho nên Khổng tử bảo: “Nhỏ thì phải răng mình vì sự tranh đấu, lớn lên phải răng mình về sắc dục, già thì phải răng mình về tính tham lam” (Thiếu, giới chi tại đấu; cập kì tráng, giới chi tại sắc; cập kì lão, giới chi tại tham), nghĩa là trẻ con thì ham đánh nhau, người lớn thì ham đàn bà, mà người già thì ham tiền.



Thái độ của người Trung Hoa có thể tóm trong câu này: “Cái gì cũng nên vừa phải thôi”, đừng đòi hỏi nhiều quá hay ít quá. Con người ở giữa cái khoảng trời, đất, giữa cái lí tưởng và cái thực tế, giữa những tư tưởng cao thượng và những tình dục đê hèn. Bản chất của con người như vậy: thèm khát hiểu biết cũng như thèm khát nước ngọt, thích một tư tưởng đẹp cũng như thích món thịt bò nấu măng, thưởng thức một câu thơ hay cũng như ngắm nghía một mĩ nữ. Thế giới như vậy đó, đâu có hoàn hảo. Tất nhiên có thể cải thiện xã hội, nhân loại một phần nào được, nhưng người Trung Hoa không tin rằng có sự hòa bình hoàn toàn, có hạnh phúc hoàn toàn. Có một cố sự chứng tỏ quan điểm đó. Một người bị giam ở địa ngục, sắp được đầu thai, tâu với Diêm Vương: “Như quả Đại Vương muốn cho tôi trở về dương gian, thì tôi xin được vài điều kiện”. Diêm Vương hỏi: “Điều kiện nào?”. Người đó đáp: “Tôi xin được làm con một vị Tể tướng, làm cha một vị Trạng nguyên; tôi xin được một ngôi nhà ở giữa một khu đất vạn mẫu, có ao thả cá, có đủ loại trái cây; lại xin có một người vợ rất đẹp và nhiều tì thiếp diễm lệ, hết thảy đền ngoan ngoãn chiều chuộng tôi; lại xin châu bảo chất đầy phòng, lúa chất đầy lẫm, tiền bạc chất đầy rương, mà tôi thì được làm công khanh, một đời vinh hoa phú quí, sống lâu trăm tuổi”. Diêm Vương đáp: “Trên dương gian mà có được con người như vậy thì ta đây đã đầu thai thay ngươi rồi!”.



Bản chất của con người đã như vậy (không hoàn toàn tốt, không hoàn toàn xấu) thì thái độ phải chăng, hợp lí là tìm cách thích ứng với nó. Với lại cũng không có cách nào tránh được nó kia mà. Tình dục hoặc bản năng bẩm sinh ra, là điều không có ích lợi gì mấy để đem ra bàn. Nhưng có điều chắc chắn là để cho chúng sai khiến, làm nô lệ cho chúng thì nguy hiểm lắm. Cho nên phải giữ cái đạo trung. Cái thái độ cận tình hợp lí đó tạo nên một triết lí khoan dung, coi những lầm lẫn, những hành vi xấu xa của con người, bất luận về phương diện pháp luật, luân lí hay chính trị, là có thể tha thứ được nếu nó chỉ là cái chuyện thường tình. Người Trung Hoa còn cho Trời hay Thượng đế là một vị hoàn toàn hợp lí cận tình nữa, và nếu chúng ta sống hợp với lương tri của ta thì không sợ gì cả, mà nếu lương tâm của ta được yên ổn, thì không còn gì sướng hơn, dẫu là ma quỉ cũng không dám động đến ta. Có một Thượng Đế hợp lí cận tình quản nhiệm công việc của những người mà đa số cũng hợp lí, cận tình, như vậy thì thế giới sẽ hoàn toàn có trật tự, thái bình vô sự. Bọn chuyên chế sẽ chết; bọn phản quốc sẽ tự tử; bọn ăn cắp sẽ bị bắt; kẻ giàu tham ham tom góp bảo vật, suốt đời lo lắng, thì con cái họ sẽ phá tán gia sản, và những bảo vật đó sẽ vào tay các gia đình khác; kẻ sát nhân sẽ không tránh khỏi tội chết; những đàn bà bị nhục sẽ được báo thù. Đôi khi, cũng có người bị ức hiếp gào lên: “Trời không có mắt”, nhưng hiếm lắm. Rút cục, dù theo Lão giáo hay theo Khổng giáo thì cái mục đích duy nhất đều là tìm hiểu Tự nhiên để hòa hợp với Tự nhiên, và nếu cần phải đặt tên cho dễ gọi thì tôi đặt cho triết lí đó cái tên: “ Chủ nghĩa Tự nhiên hợp lí”. Một người theo chủ nghĩa đó sẽ sống một cách thỏa mãn, như vạn vật. Đúng như các phụ nữ vô học người Trung Hoa thường nói: “Cha mẹ sinh ra mình, thì mình sinh con. Còn việc gì khác để làm nữa?”.



Có một triết lí ghê gớm trong lời đó. Đời sống thành ra một trình tự về tình lí, mà vấn đề linh hồn bất tử thành ra vấn đề phụ. Do đó mà ta thấy những ông lão trịnh trọng dắt cháu nội đi mua kẹo mạch nha cho nó, vừa đi vừa nghĩ rằng trong mười năm nữa mình sẽ xuống hố hoặc về với ông bà. Điều quí nhất mà chúng ta có thể hi vọng được ở đời này là đừng có những đứa con cháu làm nhục cho ta. Tất cả đời sống Trung Hoa qui cả vào ý tưởng duy nhất đó.

___
[1] Trong tiết này, tác giả không xem xét quan niệm của những người theo đạo Phật, vì “quan niệm đó bi thảm quá”; nhưng ông có xét quan niệm của những người theo đạo Ki Tô trong ba trang đầu; chúng tôi lược bỏ những trang đó vì thấy không cần thiết cho ý nghĩa của toàn chương.
vnthuquan.net

Không có nhận xét nào: