Con người sinh ra tự do nhưng ở đâu cũng có xiềng xích. J.J. ROUSSEAU.

9 thg 7, 2011

Tuyên Dương Của Viện Hàn Lâm Thụy Điển

Anders Österling, Viện sĩ Viện Hàn lâm Thụy Điển
Chuyển ngữ : Trần Tiễn Cao Đăng


Thơ không chỉ là nhận thức, mà còn là chính cuộc sống trong sự đủ đầy trọn vẹn của nó. Nhà thơ đã sống trong lòng người ăn lông ở lỗ và sẽ sống trong lòng người thời đại nguyên tử, bởi vì thơ ca là một đặc tính không thể tách rời của nhân loại.

Saint-John Perse
(31/5/1887 - 20/9/1975)
Giải Nobel Văn học 1960




Người được trao giải Nobel năm nay mang một cái tên có âm hưởng khác thường, bởi trước hết ông muốn tự vệ trước những kẻ tò mò. Saint-John Perse là cái tên đã trở nên lừng lẫy trên toàn thế giới bởi một người mà trong đời sống công dân được gọi là Alexis Léger và từng đạt được uy tín lớn lao trong một lĩnh vực khác của đời sống cộng đồng.
Vậy là cuộc đời ông được chia làm hai giai đoạn: một đã chấm dứt còn một vẫn đang tiếp diễn: Alexis Léger, nhà ngoại giao, đã chuyển hóa thành Saint-John Perse, nhà thơ.



Tuy được coi là một nhân vật văn học, ông có một tiểu sử nổi bật ở nhiều phương diện. Ông sinh năm 1887 tại Guadeloupe trong một gia đình người Pháp định cư tại đây từ thế kỷ 17. Thời thơ ấu của ông trôi qua ở chốn Địa đàng nhiệt đới này, nơi suốt ngày tiếng cọ rì rào, nhưng đến năm mười một tuổi ông theo gia đình trở lại Pháp. Ông học tại Pau rồi ở Bordeaux, quyết định lấy bằng luật, và năm 1914 ông bước vào sự nghiệp ngoại giao. Đầu tiên ông được cử đến Bắc Kinh, sau đó được giao phó những nhiệm vụ ngày càng quan trọng. Với tư cách Tổng thư kí Bộ ngoại giao trong nhiều năm, phẩm trật ngang với ủy viên hội đồng quốc gia, ông đảm nhiệm nhiều trọng trách trong thời kì diễn ra những sự kiện chính trị ngay trước cuộc Thế chiến thứ hai.
Sau khi Pháp thua trận năm 1940, ông bị đình chỉ công tác và bắt đi đày, bị chính phủ Vichy coi là một phần tử nguy hiểm, thậm chí bị tước quốc tịch Pháp. Ông tìm nơi nương náu tại Hoa Kì, làm chân cố vấn văn học cho Thư viện Quốc hội. Chẳng bao lâu sau chính phủ Pháp phục hồi toàn bộ danh dự cho ông, nhưng kẻ đi đày cự tuyệt trở lại ngành ngoại giao. Tuy nhiên, mấy năm gần đây ông thường xuyên trở lại Pháp vì lý do cá nhân.
Đây là một sự nghiệp mở ra những triển vọng lớn lao và hàm chứa trong một con người vốn thành công ở nhiều lĩnh vực và dưới nhiều hoàn cảnh, kết hợp với một giọng nói đậm chất tâm linh có phẩm tính năng động khác thường. Tính năng động có tầm cỡ quốc tế này, dấu ấn không nhầm lẫn của một nhà du hành vĩ đại, còn là một trong những chủ đề thường xuyên xuất hiện trong tác phẩm của nhà thơ. Thành công đầu tiên của ông là chùm thơ Tôn vinh tuổi ấu thơ (Pour fêter une enfance, 1910) với những hình ảnh chói lòa gợi lại trong buổi hoàng hôn óng vàng của hồi ức tuổi thơ về cõi thiên đường xa xăm của Guadeloupe, với những loài cây cối và thú vật như trong huyền thoại. Từ Trung Hoa ông trở về với một trường ca, Tiến quân (Anabase, 1924), với một hình thức ám gợi và rắn như men sứ, kể về một cuộc hành quân huyền bí vào những vùng sa mạc châu Á. Cũng một hình thức đó, nén chặt một cách không khoan nhượng, mà trong đó thơ và văn xuôi thống hợp thành một dòng chảy uy nghiêm hoà quyện giữa thơ Kinh thánh với nhịp thơ Alexandrine, lại xuất hiện trong các tập thơ kế tiếp: Lưu đày (Exil, 1942) và Gió (Vents, 1946), đều được viết tại Hoa Kì. Các tập này là một diễn ngôn sừng sững về vòng xoay không ngừng nghỉ của thoái hóa và phục sinh, trong khi Ngấn biển (Amers, 1957) thì ngợi ca biển cả, nguồn sức mạnh vĩnh cửu, cái nôi đầu tiên của các nền văn minh.
Quả thật, các tác phẩm này có một tính độc sáng đáng kể, phức tạp về cả hình thức lẫn tư tưởng, nhưng nghệ sĩ bậc thầy đã tạo ra chúng hoàn toàn không phải là một người lập dị, nếu bảo lập dị có nghĩa là ông giam chính mình trong tự mãn và chỉ quan tâm đến chính mình. Hoàn toàn ngược lại; phẩm chất chủ đạo của ông là nỗi khao khát thể hiện con người với toàn thể tính đa bội của nó, trong toàn bộ diễn trình của nó; ước muốn miêu tả con người, vĩnh viễn là kẻ sáng tạo, đấu tranh từ thế kỷ này sang thế kỷ khác để chống lại sự ương ngạnh cũng vĩnh hằng không kém của các nguyên tố. Ông tự đồng nhất mình với mọi chủng tộc từng sinh sống trên trái đất đầy bão táp của chúng ta. “Nòi giống chúng ta già cỗi,” ông viết trong một bài thơ, “nòi giống chúng ta vô danh. Và thời gian biết nhiều về tất cả những con người mà chúng ta có thể từng là... đại dương sự vật vây bọc chúng ta. Cái chết nằm ở ô cửa sổ, nhưng đường của chúng ta không ở đó”.
Trong những lời ngợi ca này đối với sức mạnh sáng tạo của con người, đôi khi Saint-John Perse có thể gợi nhớ đến những vần thơ của nhà thơ Đức Hölderlin, vốn cũng là một nhà phù thủy của ngôn từ, tràn đầy sự vĩ đại của nghiệp thơ ca. Rất dễ xem sự trung thành hết mực này vào sức mạnh của thơ ca như một nghịch lý để rồi coi thường nó, đặc biệt là khi nó dường như tự khẳng định mình với một sức mạnh ngang bằng với nhu cầu khơi dậy một phản ứng tức thời đối với nỗi khao khát cảm thông giữa con người với con người. Mặt khác, Saint-John Perse là một ví dụ hùng hồn về sự tách biệt và tự lánh đời mà trong thời đại chúng ta là một điều kiện sống còn cho sáng tạo thi ca một khi mục đích của nó là cao cả.
Người ta không thể không khâm phục sự nhất quán trong thái độ thơ ca của ông, sự nhất quán của ông trong việc kiên trì phương thức biểu hiện duy nhất khả dĩ cho phép ông hiện thực hóa những ý đồ của mình, một hình thức đặc dị nhưng luôn luôn thích đáng. Sự sum suê vô tận trong phong cách sinh động của ông đòi hỏi rất cao ở người đọc về trí tuệ, nó có thể làm độc giả kiệt sức vì phải nỗ lực tập trung cao độ. Ông lấy những ẩn dụ từ mọi ngành, mọi lĩnh vực, mọi huyền thoại, mọi khu vực; những chuỗi thơ của ông gợi đến những vỏ sò biển khổng lồ từ đó phát ra một thứ âm nhạc của vũ trụ. Trí tưởng tượng vô biên này là sức mạnh của ông. Lưu đày, chia cắt - những khơi gợi mà tiếng thì thầm vô thanh của chúng mang lại giọng điệu chung cho thơ của ông; và thông qua chủ đề lưỡng nghĩa về sức mạnh và sự bất lực của con người, chúng ta có thể lĩnh hội một lời hiệu triệu đầy dũng cảm, một lời hiệu triệu có lẽ được thể hiện rõ ràng hơn trước trong tác phẩm cuối cùng của nhà thơ, Sử biên niên (Chronique, 1960), tràn đầy hơi thở của cái lớn lao mà trong đó nhà thơ tóm tắt vạn sự, khi đưa ra những bóng gió che đậy về hiện trạng của thế giới. Thậm chí, ông còn đưa ra lời kêu gọi có tính tiên tri với châu Âu: hãy nghiền ngẫm cái thời khắc định mệnh này, cái bước ngoặt này trong tiến trình lịch sử. Nhà thơ kết thúc với những lời sau: “Chúng ta ở đây - một thời đại lớn lao. Hãy đo trái tim con người”.
Thế nên, ta hoàn toàn có thể nói rằng, đằng sau một sự bí hiểm và những biểu tượng thường khó nắm bắt, Saint-John Perse mang lại cho những người cùng thời một thông điệp phổ quát. Người ta có thừa lí do để bổ sung rằng bằng cách riêng của mình, ông tiếp nối một truyền thống lớn lao của nghệ thuật thơ ca Pháp, đặc biệt là truyền thống hùng biện thừa kế từ các nhà cổ điển. Nói ngắn gọn, giải thưởng Nobel được trao cho ông chỉ xác nhận cái vị trí mà ông đã đạt được trong văn học như là một trong những nhà thơ lớn nhất.
vietbao.vn

Không có nhận xét nào: