Con người sinh ra tự do nhưng ở đâu cũng có xiềng xích. J.J. ROUSSEAU.

20 thg 10, 2011

Có Một Tâm Trí

tạp văn của Lâm Ngữ Đường 
chuyển ngữ : Nguyễn Hiến Lê


Bạn bảo tâm trí là phần cao quí nhất mà ta bẩm thụ được của Hóa Công. Vâng, hầu hết ai cũng nhận như vậy, nhất là khi người ta nghĩ tới những bực như Einstein, Edison hoặc những nhà vật lí học khác, những nhà có thể đo được tia sáng của một ngôi sao, nghiên cứu sự cấu tạo của các nguyên tử mắt người không thấy hoặc chế tạo được nhưng máy để chụp hình màu.
 So sánh với loài khỉ tò mò một cách vụng về, không có mục đích, luôn luôn thay đổi đối tượng, ta phải nhận rằng trí khôn của ta cao quí hơn, rực rỡ hơn, có thể giúp ta tìm hiểu được vũ trụ ở chung quanh. Nhưng tôi cho rằng cái tâm trí phổ thông, trung bình, lại có phần khả ái hơn, mặc dầu không cao quí bằng. Nếu tâm trí của loài người chỉ cao quí thôi thì chúng ta sẽ là những sinh vật hoàn toàn hợp lí, không có một chút tội lỗi, một chút nhược điểm, mà thế giới sẽ vô vị ra sao? Tôi rất yêu nhân loại nên không quan tâm tới hạng thánh thần toàn thiện. Chúng ta khả ái vì chúng ta có những khi vô lí, vô tâm, điên rồ, vì chúng ta vui buồn, có thành kiến, nhiệt tín, mâu thuẫn, sơ suất. Nếu chúng ta có một bộ óc hoàn toàn, thì mỗi dịp Tân niên đã chẳng phải lập kế hoạch mới cho cả năm. Cái đẹp của đời sống là ở chỗ khi chúng ta xét lại kế hoạch cũ thì thấy rằng chỉ có một phần ba là thực hiện được, một phần ba nữa chưa hề động tới, còn một phần ba nữa thì quên khuấy đi... Theo tôi, một kế hoạch thực hiện được từ đầu tới cuối không còn thú vị gì nữa. Một tướng lãnh ra trận mà chắc mình sẽ thắng thì có thể chán mà rút quân về. Có ai chơi cờ nữa nếu biết rằng đối thủ của mình tính nước nào là đúng nước đó, không chạy đi đâu được. Có tiểu thuyết nào mà đọc nổi nếu ta biết chắc được tâm lí mỗi nhân vật sẽ biến chuyển ra sao, và câu chuyện sẽ kết thúc ra sao. Đọc tiểu thuyết là theo dõi động tác của một nhân vật biến hóa bất thường, gặp những hoàn cảnh cũng biến chuyển bất thường không sao đoán trước được. Nếu nhân vật là một người cha lúc nào cũng nghiêm khắc, không bao giờ khoan dung với con cái, hoặc là một người chồng lúc nào cũng lừa vợ, thì tiểu thuyết sẽ chán chết. Ta thử tưởng tượng một nhạc sĩ nổi danh, tự đắc, đã nhất định không chịu soạn một ca kịch cho một mĩ nhân nào đó mà bỗng thay đổi ý kiến, hăng hái soạn liền chỉ vì hay rằng có một địch thủ mình ghét cay ghét đắng đang tính làm công việc đó; hoặc một nhà bác học suốt đời không chịu đăng một bài nào trên báo hằng ngày, nay thấy một bạn đồng nghiệp viết lầm một chữ, vội quên qui tắc của mình đi, viết ngay bài đem lại nhà in ; những nhân vật tự mâu thuẫn với mình như vậy mới thực hợp với tâm lí kì cục, vô lí, thiên kiến, bất thường của chúng ta. Không hiểu thấu chân lí đó thì chẳng biết chút gì về những công trình nghiên cứu khoa tâm lí trong một thế kỉ này cả. Nói cách khác, trí tuệ của ta vẫn còn vụng vê, thiếu mục đích như trí khôn loài khỉ vậy.

 
Cái tâm trí vô lí một cách khả ái đó, tôi lại thích nó hơn là một thứ tâm trí toàn thiện. Tôi ghét một thế giới mà mọi người đều hoàn toàn cả. Tôi nghi ngờ sự tấn bộ của khoa học chăng? Không, tôi chỉ nghi ngờ cái cảnh giới của thánh thần thôi. Tôi phản đối tri thức chăng ? Có thể như vậy, có thể không. Tôi chỉ yêu đời sống thôi mà vì yêu đời sống nên tôi nghi ngờ trí tuệ. Bạn thử tưởng tượng một thế giới không có những tin giết người trên báo, không có hỏa hoạn, không có một tai nạn phi cơ nào, không có một người chồng bỏ vợ, một vị mục sư trốn theo ca nữ, không có một ông vua hi sinh ngai vàng cho má phấn, không có một người nào đổi ý và ai nấy đều theo đúng con đường mình đã vạch sẵn từ hồi mười tuổi, không sai một tơ hào - cái thế giới thần tiên đó tôi xin vĩnh biệt thôi. Không có cái gì kích thích, không có cái gì hồi hộp trong thế giới đó cả. Sẽ không còn có văn chương nữa vì không còn tội lỗi, không còn nhược điểm của con người, không còn những tình dục hỗn loạn, không còn thiên kiến, không còn những sự bất thường và tệ hơn nữa, không còn một chút ngạc nhiên nào cả. Y như một cuộc đua ngựa mà bốn năm vạn khán giả đều biết trước con ngựa nào sẽ về nhất. Nếu loài người không có chút lầm lỗi thì đời người sẽ hết màu sắc, cũng như trong một cuộc đua ngựa nhảy rào, không có những tình thế đổi ngược thì hết thú. Nếu chúng ta là những sinh vật hoàn toàn hợp lí, thì đáng lẽ thành những bậc trí giả, chúng ta chỉ thành những máy tự động chỉ để ghi rất đúng những xúc động nào đó như chiếc đồng hồ điện. Như vậy đâu phải là con người nữa, cho nên tôi bảo là xấu.



Chắc độc giả nghĩ rằng tôi rán bênh vực nhược điểm của nhân loại, rán coi tật xấu là những đức tốt. Không phải vậy đâu. Nếu chúng ta phát triển tâm trí cho hoàn toàn, thì có cái lợi là hành vi của ta sẽ hợp lí, nhưng lại có cái hại là đời sống mất màu sắc, tân kì di. Không có gì chán bằng sống với một nhà đạo đức kiểu mẫu. Một xã hội gồm toàn những nhà đạo đức tuy tồn tại được đấy, nhưng có nên sinh tồn trong một xã hội như vậy không? Nên dùng mọi cách để tạo một xã hội có trật tự, nhưng đừng có trật tự quá. Tôi nghĩ đến loài kiến những sinh vật có lẽ hợp lí nhất trên trái đất Chúng tạo được một quốc gia theo chủ nghĩa xã hội và nhờ vậy chúng đã tồn tại được có lẽ cả triệu năm nay rồi. Về phương diện hành động hợp lí thì chúng đáng được giải thưởng nhất, rồi giải nhì mới về phần chúng ta. Đời sống của chúng khắc khổ, lành mạnh, cần kiệm. Chúng tôn trọng kỉ luật của xã hội mà lại tự chủ hơn chúng ta. Chúng làm việc cho Quốc gia, xã hội mười bốn giờ một ngày; có ý thức rõ ràng về bổn phận, nhưng có lẽ thiếu ý thức về quyền lợi; chúng kiên nhẫn, có thứ tự, lễ độ, can đảm và nhất là trọng kỉ luật. Về kỉ luật, chúng ta là hạng bét, đáng cho vào Viện Bảo cổ.



Đọc tiểu sử các vĩ nhân trong lịch sử, chúng ta sẽ nhận điều này là hành vi của họ rất ít tính cách hợp lí. Ông Jules César cao quí, hành vi rất vô lí kia, sao lại mê Cléopâtre để đến nỗi vì một người đàn bà mà suýt bỏ rơi cả đế quốc La Mã. César mới chỉ là suýt bỏ rơi đế quốc chứ Antoine thì bỏ rơi hẳn rồi. Thánh Moise kia, trong một cơn nổi khùng, do đã đập phá những thạch bản thiêng liêng mà Ngài đã tốn công khắc bốn chục ngày với Thượng Đế ở trên núi Sinai; như vậy Ngài có hợp lí gì hơn những người Do Thái đã quên Thượng Đế và trong khi vắng mặt Thượng Đế đi thờ con Bò vàng không? Rồi vua David tính tình bất thường kia, tàn ác rồi lại đại độ, thành tín rồi lại bội giáo, thờ Chúa mà lại phạm tội, rồi làm thơ để tỏ nỗi hối hận, kính thờ Chúa trở 1ại. Vua Salomon kia, vào bực đại trí, đại đức mà không giúp con được chút gì… Rồi Đức Khổng Tử kia, có khách đến thăm, sai người bảo rằng đi vắng, khách mới quay gót đã gảy đàn cho khách biết rằng mình có nhà... Rồi Đức Ki Tô sa lệ ở Gethsémanie, hoài nghi ở trên thánh giá... Shakespeare khi chết để lại cho vợ cái giường "tốt thứ nhì" của mình… Milton xung khắc với vợ, bảy chục tuổi còn viết một thiên về sự li dị… Goethe lại nhà thờ làm lễ cưới, dắt theo cậu con mười chín tuổi... Còn Jonathan Swift và Stella,... Ibsen và Emilie Bardarch nữa.



Vậy thì có phải rõ ràng là nhiệt tình chứ không phải lí trí thống tri thế giới không? Có phải rằng sự thiếu lí trí của những vị đó làm cho họ khả ái, hợp nhân tình không ? Những tiểu truyện người Trung Hoa viết về cha mẹ ông bà, đọc rất chán, không bổ ích gì cả mà lại rất sai vì họ có thói tả tổ tiên như những vị siêu phàm, toàn đức vậy. Các đồng bào của tôi trách cuốn “Nước tôi và dân tộc tôi” (My country and my people) là tả người Trung Hoa một cách hợp nhân tính quá, vạch cả những khuyết điểm chung với ưu điểm. Họ tưởng rằng nếu tôi tả nước Trung Hoa như một xứ cực lạc đầy những thánh hiền đạo Nho sống rất hợp tí trong cảnh thái bình vĩnh viễn, thì có phải là tôi tuyên truyền đắc lực cho nước tôi không… Nhưng cái thú vị của truyện kí là nó vạch cho ta thấy rằng những vĩ nhân cũng có điểm tầm thường như chúng ta. Mỗi một nét vô lí trong thái độ, hành vi của họ là một nét thêm tính cách chân thực cho truyện. Chính nhờ vậy mà tác phẩm của Lytlon Strachpy[1] mới thành công.



Dân tộc Anh là một kiểu mẫu tâm trí lành mạnh. Họ lí luận tệ lắm, nhưng có những "ăng ten" nhạy để cảm thấy sự nguy hiểm mà bảo vệ đời sống của họ. Tôi không thấy một chút hợp lí nào cả trong hành vi hoặc trong lịch sử của họ. Các viện Đại học, Hiến pháp, Giáo hội Anh Cách Lan của họ đều là những công trình vá víu từng miếng, tùy theo quá trình phát triển mà nay thêm một chút, mai thêm một chút. Sức mạnh của Đế quốc quốc Anh chính ở chỗ họ thiếu lí trí, hoàn toàn không nhận được quan điểm của người khác, tin chắc rằng chỉ phương pháp của họ mới đúng, chỉ món ăn của họ mới ngon. Khi nào họ có lí trí và không quá tin ở họ nữa thì Đế quốc của họ sẽ sụp đổ. Vì hễ nghi ngờ mình thì không sao chinh phục được thế giới. Ta không sao hiểu được thái độ của họ đối với vua, không hiểu tại sao họ trung thành, yêu quí một vị quốc vương mà họ cho nói mới được nói, cho ngồi trên ngai mới được ngồi, bắt xuống thì phải xuống... Dưới triều Nữ hoàng Elizabeth, khi nước Anh cần những tên hải tặc để che chở đế quốc, thì họ sản xuất ra được đủ và sùng kính tụi đó. Thời nào cũng vậy, người Anh luôn luôn có những hành động thích đáng: cần chiến tranh thì họ chiến tranh, cần chống kẻ thù nào thì họ chống kẻ thù đó, cần liên kết với nước nào thì họ liên kết với nước đó, cần đứng về phe nào thì họ đứng về phe đó, mà đúng vào lúc thích đáng nhất, rồi họ dùng một danh từ sai để gọi chiến tranh đó. Như vậy không phải là nhờ óc lí luận của họ đâu, nhờ những "ăng-ten” của họ đấy.



Nước da của họ hồng hào, có lẽ là do sương mù ở Luân Đôn và do họ ham chơi cricket (một lối hí cầu). Một nước da lành mạnh như vậy không thể không ảnh hưởng lớn tới lối nhận định hướng đi của họ trên đường đời. Họ suy nghĩ bằng lớp da, còn người Trung Hoa suy nghĩ bằng khúc ruột. Người ta bảo rằng các học giả Trung Hoa bụng chứa đây tư tưởng, đầy kinh luân, thơ văn, hoặc bụng đầy sầu muộn uất hận, dục vọng. Tình nhân Trung Hoa xa nhau, viết thư cho nhau, thường dùng từ ngữ "ruột rầu trăm mối" (sầu trường bách kết), gọi cảnh biệt li là cảnh "đoạn trường". Học giả Trung Hoa khi soạn một thiên tiểu luận hoặc diễn văn, mà chưa chép lên giấy thì bảo rằng "phúc cảo” đã xong, nghĩa là ý tứ đã sắp sẵn trong bụng cả rồi. Tôi tin như vậy là đúng. Sự kiện đó rất khoa học và có thể chứng thực được nhất là khi các nhà tâm lí học sau này hiểu rõ tính chất của tình cảm và sự cấu tạo của tư tưởng hơn. Nhưng người Trung Hoa không cần chứng cứ khoa học. Tính chất tình cảm của khúc điệu Trung Hoa xuất phát từ bụng người hát (phần dưới hoành cách mô); phải hiểu điều đó rồi mới nhận được sắc thái tình cảm nồng hậu của âm nhạc Trung Quốc.



Muốn nghiên cứu vũ trụ thì tâm trí có khả năng rất quí; nhưng muốn nghiên cứu những giao tế nhân sự thì khả năng của nó còn đáng ngờ. Tôi lạc quan tin những phát minh của khoa học, nhưng tôi ít tin rằng ai nấy đều có óc biết phán đoán việc đời hoặc đạt được sự bình tĩnh và sáng suất mà không bị dục tình chi phối. Cá nhân có thể đạt được một mức rất cao về trí, đức, nhưng xã hội tập đoàn thì vẫn còn bị tình dục sai khiến, vẫn còn có lúc trở lại giai đoạn dã man, có những bản năng man rợ, những hành vi cuồng nhiệt như loạn thần kinh.



Biết rằng con người dễ lầm lỗi như vậy, chúng ta càng ghét những kẻ khốn nạn lợi dụng nhược điểm của ta để lôi kéo chúng ta vào một cuộc thế chiến mới; những kẻ tiêm mối thù hận vào lòng ta (mối thù hận mà ai cũng đã sẵn có trong lòng rồi); những kẻ đề cao lòng tự ái và tự tư (hai tật đó có người nào thiếu đâu); những kẻ gợi lòng cuồng nhiệt thú vật của ta, những thành kiến về chủng tộc của ta; những kẻ bất chấp giới luật thứ năm của Thượng Đế mà hô hào thanh niên giết người, coi sự tàn sát và chiến tranh là cao quí (cơ hồ như loài người chưa đủ hiếu chiến); và những kẻ kích thích tình dục của ta (cơ hồ như chúng ta chưa giống loài vật là bao nhiêu). Cái tâm trí đáng khinh đó mặc dầu rất cơ xảo, minh mẫn, khôn ranh, cũng chỉ là thứ tâm trí của cầm thú. Ở trong người chúng ta có một con quỉ cột bằng một sợi dây xích cũ, mòn. Bất cứ lúc nào, dây xích đó cũng có thể đứt, mà con quỉ đó sẽ vùng chạy, đạp xéo chúng ta và nhắc nhở rằng chúng ta chỉ có một lớp văn minh ở ngoài, còn bản chất vẫn còn quá gần với cầm thú. Và thế giới chúng ta có thể biến thành một vũ đài trên đó người Maure[2] giết giáo đồ Ki Tô, giáo đô Ki Tô giết người Maure; người Da đen đâm chém người Da trắng, người Da trắng đâm chém người đen, và những con chuột chũi sẽ từ trong hang chui ra để ăn thịt người, những con ó sẽ bay liệng từng bầy trên không sau một bữa tiệc no nê.



Các nhà phân tâm học khi muốn chữa những bệnh thần kinh thường làm cho bệnh nhân nhớ lại dĩ văng và nhìn đời một cách khách quan. Loài người cũng vậy, nếu nhớ lại dĩ vãng của mình thì sẽ hiểu rõ mình hơn, nếu nhớ lại cái nguồn gốc động vật của mình thì sẽ không có những hành vi của loài cầm thú nữa.



Làm sao kiểu chính được tình trạng đó? Óc phán đoán thì nghèo nàn và lạnh lẽo, ngay đến lí trí cũng không giúp được bao nhiêu; chỉ có một tinh thần điều hòa, một nguồn tư tưởng ấm áp rực rỡ, phát từ trực giác, hòa hợp với tấm long trắc ẩn, mới tránh cho ta được sự thoái hóa về thời dã man của tổ tiên chúng ta. Phải phát triển đời sống một cách điều hòa với bản năng, như vậy mới cứu được nhân loại. Tôi cho rằng sự giáo dục ngũ quan và cảm xúc của ta quan trọng gần bằng sự giáo dục tư tưởng.



___

[1] Văn sĩ Anh (1880-1932) có tài viết tiểu sử danh nhân, tác giả cuốn Nữ hoàng Victoria.
[2] Dân Ả Rập theo Hồi giáo ở Mauritanie và nhiều xứ khác như Sénégal. Ngày trước, thời Trung Cổ, người Á Châu gọi chung dân Ả Rập là người Maure.
vnthuquan.net

Không có nhận xét nào: